Cây Xoài, Giàn Nho
-
Quyển 1 - Chương 29: Đêm vắng hoa nở
Bạch Sa Loan không tìm được trên bản đồ.
Nhưng trong mắt Mộc Tiểu Thụ, thôn trại nhỏ bé bị bản đồ xao nhãng này còn khiến người ta rung động hơn cả danh lam thắng cảnh. Kì Tấn Khiêm dùng một tuần đưa cô đi dạo cả Bạch Sa Loan, còn cô thì dùng một tuần để cảm nhận góc nhìn chuyến đi của thiếu niên Kì Tấn Khiêm.
“Kì tiên sinh, năm đó một mình anh leo lên ngọn núi này, còn phát hiện cái này à?” Hai chân Mộc Tiểu Thụ giẫm trên khe núi đá ướt sũng, nhìn động tiên màn nước bốn phía mà tán thưởng.
Đây là một hang núi hình thành tự nhiên, ẩn trong nguồn suối róc rách. Trên đỉnh là tháng sáu trời trong xanh biếc như được tẩy rửa, dưới đáy hang là ve sầu thê lương đầu sương tháng chín. Đá dưới hang được bày đặt rất thú vị, tựa như đàn dương cầm xoay tròn, phím đàn đen trắng chênh lệch hỗn loạn, dây leo làm dây đàn, nước chảy làm âm thanh.
Thiên nhiên huyền diệu.
Kì Tấn Khiêm ngồi ngoài hang thành thạo nhóm một đống lửa, anh lấy ra dụng cụ và đồ ăn từ trong ba lô, bắt đầu chuẩn bị bữa trưa.
Anh vừa nướng thịt vừa nói với cô gái đang ở trong hang phía xa: “Năm đó một mình tôi đi du lịch tình cờ đi tới Bạch Sa Loan, bất ngờ phát hiện ra cái hang núi này. Tôi vốn tưởng rằng qua nhiều năm như vậy, nơi này đã bị khai phá rồi, không ngờ vẫn còn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu.”
Mộc Tiểu Thụ từ dưới hang nhảy lên, thuận đường duỗi tay lấy củ khoai tím trong tay Kì Tấn Khiêm: “Nhưng mà, tại sao anh muốn đi du lịch một mình?”
Anh liếc cô một cái, sau đó bỏ thêm một nhánh cây vào đống lửa: “Du lịch một mình rất tự do, ném mọi việc ra sau đầu, có thể thay đổi lộ trình bất cứ lúc nào, rất thuận tiện.”
Cô cắn khoai nói: “Anh không cảm thấy cô đơn ư?”
Anh suy tư một lúc lâu, hỏi: “Tại sao lại cô đơn?”
“Anh tìm được một nơi xinh đẹp mà không ai biết cả, anh nướng đồ ăn ngon lại chẳng có ai ăn cùng, một mình anh đi đường cũng không có người trò chuyện với anh.” Cô đếm ngón tay.
Anh có phần đồng ý gật đầu: “Đúng vậy, đó là lý do tại sao tôi chưa từng có lần đi du lịch nào sống động như lúc này, mỗi một bước đi đều có người sôi nổi líu ríu, tôi còn phải nhìn trước ngó sau để phòng ngừa cái đuôi nhỏ ham chơi này đi theo đám đông mà tách ra.”
Mày liễu của Mộc Tiểu Thụ dựng thẳng: “Nói bậy, em tách ra hồi nào? Tối đó rõ ràng là anh bị lạc, còn bị cô dâu lừa làm chú rể, nếu không phải em dũng cảm quên mình làm việc nghĩa, anh còn có thể tốt lành ngồi ở đây chê em sao?”
Anh gắp một miếng đùi gà đã nướng chín nhét vào miệng cô: “Đó là tập tục của Bạch Sa Loan, đương nhiên không thể ràng buộc người bên ngoài.”
“Anh nói dễ dàng nhỉ,” cô cố gắng nuốt xuống miếng thịt gà, “Ngộ nhỡ anh thật sự bị cô dâu bắt trói về nhà, kết quả người vất vả không phải là em sao, em phải bám theo các người đến phòng tân hôn, cứu anh ra trước khi hai người động phòng hoa chúc.” Cô gật đầu đắc ý, than thở, “Anh nói đi, mặt mũi đẹp trai như vậy để làm gì? Lại còn thích đi du lịch một mình, ngày nào đó anh thực sự bị nữ tặc để ý, anh tìm đâu ra một người bạn cơ trí dũng cảm như em tới cứu anh chứ?”
Anh lắng nghe lời ngụy biện hùng hồn của cô mà không hề có phản ứng, hồi lâu sau mới nói: “Tôi biết, không phải tôi chê em, là em chê tôi từ đầu đến đuôi.”
“Ơ? Em không nói gì hết nhá,” cô liếm nước tương bên miệng, sắc mặt gian xảo, “Là tự anh đưa ra kết luận.”
Anh im lặng, dời cái nồi tới bên cạnh mình: “Em lợi hại như vậy, chắc chắn có bản lĩnh tồn tại trong hoang dã không nhỏ chút nào, món canh gà rừng hầm nấm trong cái nồi này của tôi khẳng định chẳng thể lọt vào mắt em, tự tôi ăn hết vậy.” Dứt lời anh cầm thìa múc canh trong nồi.
Cô cực kỳ sợ hãi, cuống quýt nắm giữ cánh tay anh: “Này này này, em thích món canh nhất. Chúng ta làm một vụ trao đổi nhé, anh chủ nội em chủ ngoại, anh phụ trách rửa tay nấu canh, em phụ trách xắn tay áo chà rửa. Trinh tiết của anh, sau này em bao luôn!”
Câu cuối cùng tựa như đất bằng nổi sóng, Kì Tấn Khiêm hoảng hồn, bàn tay cầm thìa run rẩy. Người nói chuyện lại không hề phát giác, nhìn đúng thời cơ mà đoạt lấy cái thìa, cuối cùng còn không quên thỏa mãn liếm vết canh trên thìa: “Hơi ít muối, thêm tí nữa nhé?”
Kì Tấn Khiêm bực bội cười giễu, duỗi cánh tay dài ra, tách cái nồi khỏi phạm vi của cô: “Tôi thấy muối đủ rồi, nồi canh này là nấu cho tôi, không cần thêm muối.” Dứt lời anh ngửa đầu ăn mấy ngụm to.
Bên này, Mộc Tiểu Thụ lại đau lòng đến nỗi cầm thìa đứng ngồi không yên.
“Thực ra em cũng thích mùi vị thanh đạm, không thêm muối cũng được.”
Kì Tấn Khiêm như vị tăng già ngồi thiền, vẫn hờ hững ngồi ăn.
Cô ngó nhìn cái nồi sắp thấy đáy, không cam lòng mà liếm mấy giọt canh cuối cùng trên thìa: “Kì tiên sinh, em sai rồi được chưa.”
“…Chừa chút canh cho em được không?” Âm thanh rất đáng thương.
Kì Tấn Khiêm nghe vậy, khóe miệng cong lên, nuốt xuống ngụm canh cuối cùng.
Mười lăm phút sau, Mộc Tiểu Thụ cầm một nồi canh nấm mới, sắc mặt khoái trá: “Em đã nói rồi mà, Kì tiên sinh tuấn tú lịch sự như vậy sao có thể so đo với người bình thường như em?”
Kì Tấn Khiêm nhấc mí mắt: “Nếu không bây giờ tôi so đo một chút nhé?” Anh vốn định hầm hai nồi canh, mỗi người một nồi nhỏ, chẳng qua anh ăn trước phần canh vốn là của cô.
“Khụ khụ khụ, nồi canh này ngon quá, Kì tiên sinh thật sự có tay nghề tốt ghê.” Cô cầm cái nồi ăn ùng ục, sợ Kì Tấn Khiêm đổi ý.
“Chậm một chút…nóng…” Tiếc rằng chữ “nóng” còn chưa thốt ra, cô đã ăn sạch sẽ cái nồi ngay dưới mũi anh.
“Ăn hết rồi, ha.”
Ăn xong bữa trưa, khi hai người thu dọn chuẩn bị rời khỏi, Mộc Tiểu Thụ bỗng dưng tỏ vẻ thần bí túm lấy cánh tay Kì Tấn Khiêm.
“Nơi này chưa có ai tới à?” Cô hỏi.
“Ừm.” Anh gật đầu, con đường không ai bước qua, cũng chẳng có khói lửa, nơi này giống như một phần chưa được khai hóa của Bạch Sa Loan.
“Nào nào nào, anh là người phát hiện ra cái hang này, mau đặt tên cho nó.” Cô hưng phấn nói.
Anh tự động lọc bỏ ý tưởng lộn xộn của cô, kéo cô ra khỏi hàng cỏ dại cao tới đầu gối.
“Hừm, gọi gì mới được đây?” Cô đã bắt đầu tốn sức suy nghĩ, “Phải đặt một cái tên vang dội bốn phương. Động tiên kỳ diệu! Gọi là ‘động tiên kỳ diệu’ thế nào?”
Anh tiêu điều liếc nhìn cô: “Có thể tầm thường hơn chút không?”
“Tầm thường mới là tao nhã, anh không hiểu đâu.” Cô lắc đầu làm như là thật.
Anh gật đầu: “Phải, tôi không hiểu, tất cả học đòi văn vẻ gì đó tôi chẳng hiểu cái nào.”
“Kì tiên sinh, có ai nói với anh thực ra anh là cao thủ phúc hắc độc miệng hay không?”
“Phúc hắc là gì?”
“Chính là một bụng đầy ý nghĩ xấu, lúc làm hại người ta đều dùng từ ngữ hạ bút thành văn không hề trùng lặp.”
“À, cám ơn.”
“…”
Khi trở về trại thì đã gần ba giờ chiều. Tại ven đường gặp được một vài gương mặt quen thuộc, đều là những người vây xem cô dâu gả chồng ở Bạch Sa Loan. Bọn họ hiểu nhiên còn nhớ Mộc Tiểu Thụ và Kì Tấn Khiêm, ai cũng mở miệng dùng tiếng địa phương chào hỏi hai người.
“Bọn họ nói gì thế?” Mộc Tiểu Thụ vừa quay đầu vẫy tay với những người bản xứ, vừa tò mò hỏi.
Gân xanh hai bên trán Kì Tấn Khiêm giật giật, rất thông minh đổi đề tài: “Động tác mau lẹ một tí, chúng ta phải đi nội thành một chuyến.”
“Đi nội thành làm gì?” Thành công dời chuyển sự chú ý của cô.
“Lấy một vài thứ đồ.” Anh đáp.
Khi Kì Tấn Khiêm lái xe đến địa điểm thì trời đã gần xế chiều. Trên ngã tư đường lác đác vài người, tại ven đường đều là kiến trúc bằng gỗ lâu năm. Ở góc đường có một tửu lầu kiểu thời nhà Minh nhà Thanh đứng sừng sững, lá cờ rũ tại mái hiên chầm chậm phất phơ trong gió, dường như kéo theo bụi bặm trên mái hiên rơi xuống bánh xe thời gian.
“Đây là nơi nào?” Mộc Tiểu Thụ hỏi.
Kì Tấn Khiêm đáp: “Ba phường bảy ngõ. Kiến trúc sớm nhất của nơi này có thể ngược dòng đến thời Tấn, thời Đường, tuy rằng hiện giờ đã bị thương nghiệp hóa, nhưng nguyên trạng của kiến trúc được bảo tồn coi như hoàn hảo.”
“Phường Y Cẩm, phường Văn Nho, phường Quang Lộc, ngõ Dương Kiều, ngõ Lang Quan, ngõ Tháp, ngõ Hoàng, ngõ An Minh, ngõ Cung, ngõ Cát Tí.” Mộc Tiểu Thụ liệt kê từng cái, cuối cùng dương dương tự đắc với Kì Tấn Khiêm, “Em nói đúng không?”
Lúc này đến phiên Kì Tấn Khiêm kinh ngạc: “Em đã tới rồi?”
Mộc Tiểu Thụ lắc đầu: “Không có. Nhưng em đã từng nhìn thấy.” Hồi bé, cô đã nhìn thấy ba phường bảy ngõ ở trong bức tranh dài đến chín thước, phía cuối còn đề cập tới tên phường tên ngõ cùng với tên của tác giả bức tranh. Cô từng xem một lần, đã thấy thì không thể nào quên được.
“Em nói đúng rồi.” Kì Tấn Khiêm nói, “Có điều em bỏ sót một cái, phố Nam Hậu.” Anh kéo cô đi dọc theo đường phố mười bước rồi dừng lại, “Xem, phía cuối ngõ kia chính là phố Nam Hậu.”
“Tôi phải đi lấy một vài thứ, tốn hơi nhiều thời gian. Em có thể đi dạo gần đây.” Anh bổ sung, “Đừng đi xa.”
“Đi đi, em sẽ không chạy loạn đâu.” Cô dửng dưng vẫy tay.
Cô nhìn Kì Tấn Khiêm đi vào một mặt tiền cửa hàng trông như là hiệu cầm đồ, còn cô thì dọc theo hẻm nhỏ đi về phía trước. Ba phường bảy ngõ đan xen ngang dọc, rất dễ lạc đường, có điều cô đi theo một con đường này, chắc là không lạc đâu nhỉ?
Cạnh ngõ hẻm còn có thợ thủ công chưa đóng quầy hàng, đang ngồi xổm quấn kẹo đường trên cái bàn thấp. Nước đường màu vàng kim được thợ thủ công xoay qua xoay lại, cuối cùng làm ra hình dáng của một con gà trống.
Mộc Tiểu Thụ nhìn đầy hưng phấn, thình lình con gà trống kia đưa tới trước mặt cô. Ông thợ thủ công vừa thu dọn quầy hàng vừa dùng tiếng phổ thông mang theo giọng địa phương nặng nề nói với cô: “Cô gái, một con cuối cùng, tặng cho cô.”
Ông lão nhếch miệng mỉm cười, nếp nhăn hở ra như vỏ cây cằn cỗi, Mộc Tiểu Thụ lại cảm thấy thân thương: “Cháu cám ơn ông ạ.”
Mộc Tiểu Thụ ngồi trên bậc đá liếm kẹo, trong lòng lẩm bẩm sao Kì tiên sinh còn chưa tới. Đang nghĩ ngợi, trong tầm nhìn của cô bỗng nhiên xuất hiện một đôi giày.
Một đôi giày cao gót thủy tinh đẹp đẽ lộng lẫy, khảm đầy kim sa màu vàng nhạt.
Mộc Tiểu Thụ từ cặp chân mảnh khảnh của người tới mà nhìn lên, không ngờ nhìn thấy một gương mặt xinh đẹp.
Đôi môi đỏ mộng của người kia hơi mím lại, hài lòng nhìn thấy sắc mặt Mộc Tiểu Thụ tái dần. Cô ta cong khóe miệng dùng giọng điệu châm biếm: “Mộc Lạc Phân phải không? Tôi nghĩ chúng ta có thể nói chuyện một chút.”
***
Khi nắng chiều sắp biến mất tia sáng cuối cùng, Mộc Tiểu Thụ đợi được Kì Tấn Khiêm.
Tay trái anh cầm mấy vật hình ống dài, tay phải vỗ đầu cô: “Xin lỗi, để em đợi lâu như vậy. Đi dạo thế nào?”
Cô ngửa đầu, híp mắt cười: “Đi dạo rất vui, nhưng mà ——” cô bỗng nhiên sụp bả vai, “Em đói bụng.”
Tâm trạng của anh rõ ràng tốt lắm, anh ôm bờ vai cô nói: “Đi, quay về Bạch Sa Loan, tôi chuẩn bị một bữa tiệc lớn.”
Cô không hề che giấu vẻ khinh thường trong giọng nói: “Anh nấu cơm? Ngoại trừ thịt xào tiêu cay, dưa chuột trộn, đậu que xào và canh trứng cà chua, anh còn có thể làm gì?”
“Thế nào, lại bắt đầu chê nữa à?” Anh thong thả nói, “Là ai thề thốt nói rằng muốn tôi chủ nội rửa tay nấu canh hả?”
“Được, tối nay chúng ta ăn canh.” Cô cao giọng nói, “Nếu tối nay Kì tiên sinh không làm ra món canh đầy đủ sắc hương vị, thế thì em sẽ không rửa bát. Quyết định thế nhé.”
Anh cười: “Vậy tối nay làm phiền em rửa bát rồi.”
***
Căn lầu nhỏ, ban công ngoài trời.
Chén bát bừa bộn trên bàn, người cạnh bàn lại thoải mái ngắm trăng trên trời.
Mộc Tiểu Thụ tìm vị trí thoải mái nhất ở trong võng, than ngắn thở dài với vì sao đầy trời nào là đời người ngắn ngủn, nào là giọt nước trong biển cả chẳng thể ngăn lại vật đổi sao dời.
Kì Tấn Khiêm ngồi trên tấm chiếu cạnh chiếc võng móc lỗ tai đành chịu, nói: “Khỏi phải than với sao với trăng, chén bát tối nay để tôi rửa.”
Thế là Mộc Tiểu Thụ rốt cuộc ngừng lại lời than vãn kéo dài không thời hạn.
“Kì tiên sinh?”
“Hửm?”
“Anh đã từng để lại một câu nói cho em, đại khái là cho dù bị cả thế giới vứt bỏ, cũng không được cam chịu, đúng không?”
“Tôi nói nhiều châm ngôn lắm, không nhớ nữa.”
Cô lại hỏi: “Vậy nếu một người suốt đời dựa vào một người khác, có phải rất bi kịch hay không?”
Anh nghĩ nghĩ, đáp: “Chưa hẳn. Em làm sao biết người được dựa vào không phải cam tâm tình nguyện để người kia dựa vào? Đổi sang một góc nhìn khác, người đã hạ quyết tâm dựa vào người khác phải có dũng khí tối cao mới giao phó bản thân cho người khác, mà người được dựa vào giữ vững lòng đầy tín nhiệm của người dựa vào, điều này cũng là một loại vinh hạnh.”
“Anh quanh qua quẩn lại làm em choáng váng rồi.” Cô phàn nàn.
Anh nở nụ cười: “Đời người vốn rất mơ hồ, em nhìn theo quan điểm này thì là tình hình như vậy, nhưng đổi sang quan điểm khác thì lại là một tình cảnh khác biệt. Em không cần phải hỏi tôi, tự trong lòng em đã có sự lựa chọn. Cô gái bướng bỉnh như em, tìm kiếm câu trả lời của tôi thực ra chỉ là vì yên tâm, không phải sao?”
Cô không nói lời nào.
“Thế thì em hãy nghe cho kỹ, câu trả lời của tôi.” Anh cúi đầu nhìn đôi mắt đen nhánh của cô, “Sự lựa chọn của em chính là câu trả lời của tôi.”
Một hạt giống nho nhỏ bỗng chốc thoát khỏi sự khống chế của cô, lén lút chui lên bén rễ trong trái tim cô, lẳng lặng nở ra một đóa hoa trong đêm tối.
Cô chớp mắt, nhìn đôi mắt anh gần trong gang tấc: “Kì tiên sinh, trước kia chúng ta đã từng gặp nhau sao?”
“Trước kia là bao lâu?” Anh hỏi.
“Rất lâu rất lâu trước kia.” Cô đáp.
Anh mỉm cười: “Đã từng gặp sao? Có lẽ vậy.”
Lại qua hồi lâu.
“Kì tiên sinh?”
“Hửm?”
“Em muốn trở lại trường học. Em muốn cùng những bạn cùng lứa tham dự kỳ thi vào trường cao đẳng.”
“Được.”
Nhưng trong mắt Mộc Tiểu Thụ, thôn trại nhỏ bé bị bản đồ xao nhãng này còn khiến người ta rung động hơn cả danh lam thắng cảnh. Kì Tấn Khiêm dùng một tuần đưa cô đi dạo cả Bạch Sa Loan, còn cô thì dùng một tuần để cảm nhận góc nhìn chuyến đi của thiếu niên Kì Tấn Khiêm.
“Kì tiên sinh, năm đó một mình anh leo lên ngọn núi này, còn phát hiện cái này à?” Hai chân Mộc Tiểu Thụ giẫm trên khe núi đá ướt sũng, nhìn động tiên màn nước bốn phía mà tán thưởng.
Đây là một hang núi hình thành tự nhiên, ẩn trong nguồn suối róc rách. Trên đỉnh là tháng sáu trời trong xanh biếc như được tẩy rửa, dưới đáy hang là ve sầu thê lương đầu sương tháng chín. Đá dưới hang được bày đặt rất thú vị, tựa như đàn dương cầm xoay tròn, phím đàn đen trắng chênh lệch hỗn loạn, dây leo làm dây đàn, nước chảy làm âm thanh.
Thiên nhiên huyền diệu.
Kì Tấn Khiêm ngồi ngoài hang thành thạo nhóm một đống lửa, anh lấy ra dụng cụ và đồ ăn từ trong ba lô, bắt đầu chuẩn bị bữa trưa.
Anh vừa nướng thịt vừa nói với cô gái đang ở trong hang phía xa: “Năm đó một mình tôi đi du lịch tình cờ đi tới Bạch Sa Loan, bất ngờ phát hiện ra cái hang núi này. Tôi vốn tưởng rằng qua nhiều năm như vậy, nơi này đã bị khai phá rồi, không ngờ vẫn còn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu.”
Mộc Tiểu Thụ từ dưới hang nhảy lên, thuận đường duỗi tay lấy củ khoai tím trong tay Kì Tấn Khiêm: “Nhưng mà, tại sao anh muốn đi du lịch một mình?”
Anh liếc cô một cái, sau đó bỏ thêm một nhánh cây vào đống lửa: “Du lịch một mình rất tự do, ném mọi việc ra sau đầu, có thể thay đổi lộ trình bất cứ lúc nào, rất thuận tiện.”
Cô cắn khoai nói: “Anh không cảm thấy cô đơn ư?”
Anh suy tư một lúc lâu, hỏi: “Tại sao lại cô đơn?”
“Anh tìm được một nơi xinh đẹp mà không ai biết cả, anh nướng đồ ăn ngon lại chẳng có ai ăn cùng, một mình anh đi đường cũng không có người trò chuyện với anh.” Cô đếm ngón tay.
Anh có phần đồng ý gật đầu: “Đúng vậy, đó là lý do tại sao tôi chưa từng có lần đi du lịch nào sống động như lúc này, mỗi một bước đi đều có người sôi nổi líu ríu, tôi còn phải nhìn trước ngó sau để phòng ngừa cái đuôi nhỏ ham chơi này đi theo đám đông mà tách ra.”
Mày liễu của Mộc Tiểu Thụ dựng thẳng: “Nói bậy, em tách ra hồi nào? Tối đó rõ ràng là anh bị lạc, còn bị cô dâu lừa làm chú rể, nếu không phải em dũng cảm quên mình làm việc nghĩa, anh còn có thể tốt lành ngồi ở đây chê em sao?”
Anh gắp một miếng đùi gà đã nướng chín nhét vào miệng cô: “Đó là tập tục của Bạch Sa Loan, đương nhiên không thể ràng buộc người bên ngoài.”
“Anh nói dễ dàng nhỉ,” cô cố gắng nuốt xuống miếng thịt gà, “Ngộ nhỡ anh thật sự bị cô dâu bắt trói về nhà, kết quả người vất vả không phải là em sao, em phải bám theo các người đến phòng tân hôn, cứu anh ra trước khi hai người động phòng hoa chúc.” Cô gật đầu đắc ý, than thở, “Anh nói đi, mặt mũi đẹp trai như vậy để làm gì? Lại còn thích đi du lịch một mình, ngày nào đó anh thực sự bị nữ tặc để ý, anh tìm đâu ra một người bạn cơ trí dũng cảm như em tới cứu anh chứ?”
Anh lắng nghe lời ngụy biện hùng hồn của cô mà không hề có phản ứng, hồi lâu sau mới nói: “Tôi biết, không phải tôi chê em, là em chê tôi từ đầu đến đuôi.”
“Ơ? Em không nói gì hết nhá,” cô liếm nước tương bên miệng, sắc mặt gian xảo, “Là tự anh đưa ra kết luận.”
Anh im lặng, dời cái nồi tới bên cạnh mình: “Em lợi hại như vậy, chắc chắn có bản lĩnh tồn tại trong hoang dã không nhỏ chút nào, món canh gà rừng hầm nấm trong cái nồi này của tôi khẳng định chẳng thể lọt vào mắt em, tự tôi ăn hết vậy.” Dứt lời anh cầm thìa múc canh trong nồi.
Cô cực kỳ sợ hãi, cuống quýt nắm giữ cánh tay anh: “Này này này, em thích món canh nhất. Chúng ta làm một vụ trao đổi nhé, anh chủ nội em chủ ngoại, anh phụ trách rửa tay nấu canh, em phụ trách xắn tay áo chà rửa. Trinh tiết của anh, sau này em bao luôn!”
Câu cuối cùng tựa như đất bằng nổi sóng, Kì Tấn Khiêm hoảng hồn, bàn tay cầm thìa run rẩy. Người nói chuyện lại không hề phát giác, nhìn đúng thời cơ mà đoạt lấy cái thìa, cuối cùng còn không quên thỏa mãn liếm vết canh trên thìa: “Hơi ít muối, thêm tí nữa nhé?”
Kì Tấn Khiêm bực bội cười giễu, duỗi cánh tay dài ra, tách cái nồi khỏi phạm vi của cô: “Tôi thấy muối đủ rồi, nồi canh này là nấu cho tôi, không cần thêm muối.” Dứt lời anh ngửa đầu ăn mấy ngụm to.
Bên này, Mộc Tiểu Thụ lại đau lòng đến nỗi cầm thìa đứng ngồi không yên.
“Thực ra em cũng thích mùi vị thanh đạm, không thêm muối cũng được.”
Kì Tấn Khiêm như vị tăng già ngồi thiền, vẫn hờ hững ngồi ăn.
Cô ngó nhìn cái nồi sắp thấy đáy, không cam lòng mà liếm mấy giọt canh cuối cùng trên thìa: “Kì tiên sinh, em sai rồi được chưa.”
“…Chừa chút canh cho em được không?” Âm thanh rất đáng thương.
Kì Tấn Khiêm nghe vậy, khóe miệng cong lên, nuốt xuống ngụm canh cuối cùng.
Mười lăm phút sau, Mộc Tiểu Thụ cầm một nồi canh nấm mới, sắc mặt khoái trá: “Em đã nói rồi mà, Kì tiên sinh tuấn tú lịch sự như vậy sao có thể so đo với người bình thường như em?”
Kì Tấn Khiêm nhấc mí mắt: “Nếu không bây giờ tôi so đo một chút nhé?” Anh vốn định hầm hai nồi canh, mỗi người một nồi nhỏ, chẳng qua anh ăn trước phần canh vốn là của cô.
“Khụ khụ khụ, nồi canh này ngon quá, Kì tiên sinh thật sự có tay nghề tốt ghê.” Cô cầm cái nồi ăn ùng ục, sợ Kì Tấn Khiêm đổi ý.
“Chậm một chút…nóng…” Tiếc rằng chữ “nóng” còn chưa thốt ra, cô đã ăn sạch sẽ cái nồi ngay dưới mũi anh.
“Ăn hết rồi, ha.”
Ăn xong bữa trưa, khi hai người thu dọn chuẩn bị rời khỏi, Mộc Tiểu Thụ bỗng dưng tỏ vẻ thần bí túm lấy cánh tay Kì Tấn Khiêm.
“Nơi này chưa có ai tới à?” Cô hỏi.
“Ừm.” Anh gật đầu, con đường không ai bước qua, cũng chẳng có khói lửa, nơi này giống như một phần chưa được khai hóa của Bạch Sa Loan.
“Nào nào nào, anh là người phát hiện ra cái hang này, mau đặt tên cho nó.” Cô hưng phấn nói.
Anh tự động lọc bỏ ý tưởng lộn xộn của cô, kéo cô ra khỏi hàng cỏ dại cao tới đầu gối.
“Hừm, gọi gì mới được đây?” Cô đã bắt đầu tốn sức suy nghĩ, “Phải đặt một cái tên vang dội bốn phương. Động tiên kỳ diệu! Gọi là ‘động tiên kỳ diệu’ thế nào?”
Anh tiêu điều liếc nhìn cô: “Có thể tầm thường hơn chút không?”
“Tầm thường mới là tao nhã, anh không hiểu đâu.” Cô lắc đầu làm như là thật.
Anh gật đầu: “Phải, tôi không hiểu, tất cả học đòi văn vẻ gì đó tôi chẳng hiểu cái nào.”
“Kì tiên sinh, có ai nói với anh thực ra anh là cao thủ phúc hắc độc miệng hay không?”
“Phúc hắc là gì?”
“Chính là một bụng đầy ý nghĩ xấu, lúc làm hại người ta đều dùng từ ngữ hạ bút thành văn không hề trùng lặp.”
“À, cám ơn.”
“…”
Khi trở về trại thì đã gần ba giờ chiều. Tại ven đường gặp được một vài gương mặt quen thuộc, đều là những người vây xem cô dâu gả chồng ở Bạch Sa Loan. Bọn họ hiểu nhiên còn nhớ Mộc Tiểu Thụ và Kì Tấn Khiêm, ai cũng mở miệng dùng tiếng địa phương chào hỏi hai người.
“Bọn họ nói gì thế?” Mộc Tiểu Thụ vừa quay đầu vẫy tay với những người bản xứ, vừa tò mò hỏi.
Gân xanh hai bên trán Kì Tấn Khiêm giật giật, rất thông minh đổi đề tài: “Động tác mau lẹ một tí, chúng ta phải đi nội thành một chuyến.”
“Đi nội thành làm gì?” Thành công dời chuyển sự chú ý của cô.
“Lấy một vài thứ đồ.” Anh đáp.
Khi Kì Tấn Khiêm lái xe đến địa điểm thì trời đã gần xế chiều. Trên ngã tư đường lác đác vài người, tại ven đường đều là kiến trúc bằng gỗ lâu năm. Ở góc đường có một tửu lầu kiểu thời nhà Minh nhà Thanh đứng sừng sững, lá cờ rũ tại mái hiên chầm chậm phất phơ trong gió, dường như kéo theo bụi bặm trên mái hiên rơi xuống bánh xe thời gian.
“Đây là nơi nào?” Mộc Tiểu Thụ hỏi.
Kì Tấn Khiêm đáp: “Ba phường bảy ngõ. Kiến trúc sớm nhất của nơi này có thể ngược dòng đến thời Tấn, thời Đường, tuy rằng hiện giờ đã bị thương nghiệp hóa, nhưng nguyên trạng của kiến trúc được bảo tồn coi như hoàn hảo.”
“Phường Y Cẩm, phường Văn Nho, phường Quang Lộc, ngõ Dương Kiều, ngõ Lang Quan, ngõ Tháp, ngõ Hoàng, ngõ An Minh, ngõ Cung, ngõ Cát Tí.” Mộc Tiểu Thụ liệt kê từng cái, cuối cùng dương dương tự đắc với Kì Tấn Khiêm, “Em nói đúng không?”
Lúc này đến phiên Kì Tấn Khiêm kinh ngạc: “Em đã tới rồi?”
Mộc Tiểu Thụ lắc đầu: “Không có. Nhưng em đã từng nhìn thấy.” Hồi bé, cô đã nhìn thấy ba phường bảy ngõ ở trong bức tranh dài đến chín thước, phía cuối còn đề cập tới tên phường tên ngõ cùng với tên của tác giả bức tranh. Cô từng xem một lần, đã thấy thì không thể nào quên được.
“Em nói đúng rồi.” Kì Tấn Khiêm nói, “Có điều em bỏ sót một cái, phố Nam Hậu.” Anh kéo cô đi dọc theo đường phố mười bước rồi dừng lại, “Xem, phía cuối ngõ kia chính là phố Nam Hậu.”
“Tôi phải đi lấy một vài thứ, tốn hơi nhiều thời gian. Em có thể đi dạo gần đây.” Anh bổ sung, “Đừng đi xa.”
“Đi đi, em sẽ không chạy loạn đâu.” Cô dửng dưng vẫy tay.
Cô nhìn Kì Tấn Khiêm đi vào một mặt tiền cửa hàng trông như là hiệu cầm đồ, còn cô thì dọc theo hẻm nhỏ đi về phía trước. Ba phường bảy ngõ đan xen ngang dọc, rất dễ lạc đường, có điều cô đi theo một con đường này, chắc là không lạc đâu nhỉ?
Cạnh ngõ hẻm còn có thợ thủ công chưa đóng quầy hàng, đang ngồi xổm quấn kẹo đường trên cái bàn thấp. Nước đường màu vàng kim được thợ thủ công xoay qua xoay lại, cuối cùng làm ra hình dáng của một con gà trống.
Mộc Tiểu Thụ nhìn đầy hưng phấn, thình lình con gà trống kia đưa tới trước mặt cô. Ông thợ thủ công vừa thu dọn quầy hàng vừa dùng tiếng phổ thông mang theo giọng địa phương nặng nề nói với cô: “Cô gái, một con cuối cùng, tặng cho cô.”
Ông lão nhếch miệng mỉm cười, nếp nhăn hở ra như vỏ cây cằn cỗi, Mộc Tiểu Thụ lại cảm thấy thân thương: “Cháu cám ơn ông ạ.”
Mộc Tiểu Thụ ngồi trên bậc đá liếm kẹo, trong lòng lẩm bẩm sao Kì tiên sinh còn chưa tới. Đang nghĩ ngợi, trong tầm nhìn của cô bỗng nhiên xuất hiện một đôi giày.
Một đôi giày cao gót thủy tinh đẹp đẽ lộng lẫy, khảm đầy kim sa màu vàng nhạt.
Mộc Tiểu Thụ từ cặp chân mảnh khảnh của người tới mà nhìn lên, không ngờ nhìn thấy một gương mặt xinh đẹp.
Đôi môi đỏ mộng của người kia hơi mím lại, hài lòng nhìn thấy sắc mặt Mộc Tiểu Thụ tái dần. Cô ta cong khóe miệng dùng giọng điệu châm biếm: “Mộc Lạc Phân phải không? Tôi nghĩ chúng ta có thể nói chuyện một chút.”
***
Khi nắng chiều sắp biến mất tia sáng cuối cùng, Mộc Tiểu Thụ đợi được Kì Tấn Khiêm.
Tay trái anh cầm mấy vật hình ống dài, tay phải vỗ đầu cô: “Xin lỗi, để em đợi lâu như vậy. Đi dạo thế nào?”
Cô ngửa đầu, híp mắt cười: “Đi dạo rất vui, nhưng mà ——” cô bỗng nhiên sụp bả vai, “Em đói bụng.”
Tâm trạng của anh rõ ràng tốt lắm, anh ôm bờ vai cô nói: “Đi, quay về Bạch Sa Loan, tôi chuẩn bị một bữa tiệc lớn.”
Cô không hề che giấu vẻ khinh thường trong giọng nói: “Anh nấu cơm? Ngoại trừ thịt xào tiêu cay, dưa chuột trộn, đậu que xào và canh trứng cà chua, anh còn có thể làm gì?”
“Thế nào, lại bắt đầu chê nữa à?” Anh thong thả nói, “Là ai thề thốt nói rằng muốn tôi chủ nội rửa tay nấu canh hả?”
“Được, tối nay chúng ta ăn canh.” Cô cao giọng nói, “Nếu tối nay Kì tiên sinh không làm ra món canh đầy đủ sắc hương vị, thế thì em sẽ không rửa bát. Quyết định thế nhé.”
Anh cười: “Vậy tối nay làm phiền em rửa bát rồi.”
***
Căn lầu nhỏ, ban công ngoài trời.
Chén bát bừa bộn trên bàn, người cạnh bàn lại thoải mái ngắm trăng trên trời.
Mộc Tiểu Thụ tìm vị trí thoải mái nhất ở trong võng, than ngắn thở dài với vì sao đầy trời nào là đời người ngắn ngủn, nào là giọt nước trong biển cả chẳng thể ngăn lại vật đổi sao dời.
Kì Tấn Khiêm ngồi trên tấm chiếu cạnh chiếc võng móc lỗ tai đành chịu, nói: “Khỏi phải than với sao với trăng, chén bát tối nay để tôi rửa.”
Thế là Mộc Tiểu Thụ rốt cuộc ngừng lại lời than vãn kéo dài không thời hạn.
“Kì tiên sinh?”
“Hửm?”
“Anh đã từng để lại một câu nói cho em, đại khái là cho dù bị cả thế giới vứt bỏ, cũng không được cam chịu, đúng không?”
“Tôi nói nhiều châm ngôn lắm, không nhớ nữa.”
Cô lại hỏi: “Vậy nếu một người suốt đời dựa vào một người khác, có phải rất bi kịch hay không?”
Anh nghĩ nghĩ, đáp: “Chưa hẳn. Em làm sao biết người được dựa vào không phải cam tâm tình nguyện để người kia dựa vào? Đổi sang một góc nhìn khác, người đã hạ quyết tâm dựa vào người khác phải có dũng khí tối cao mới giao phó bản thân cho người khác, mà người được dựa vào giữ vững lòng đầy tín nhiệm của người dựa vào, điều này cũng là một loại vinh hạnh.”
“Anh quanh qua quẩn lại làm em choáng váng rồi.” Cô phàn nàn.
Anh nở nụ cười: “Đời người vốn rất mơ hồ, em nhìn theo quan điểm này thì là tình hình như vậy, nhưng đổi sang quan điểm khác thì lại là một tình cảnh khác biệt. Em không cần phải hỏi tôi, tự trong lòng em đã có sự lựa chọn. Cô gái bướng bỉnh như em, tìm kiếm câu trả lời của tôi thực ra chỉ là vì yên tâm, không phải sao?”
Cô không nói lời nào.
“Thế thì em hãy nghe cho kỹ, câu trả lời của tôi.” Anh cúi đầu nhìn đôi mắt đen nhánh của cô, “Sự lựa chọn của em chính là câu trả lời của tôi.”
Một hạt giống nho nhỏ bỗng chốc thoát khỏi sự khống chế của cô, lén lút chui lên bén rễ trong trái tim cô, lẳng lặng nở ra một đóa hoa trong đêm tối.
Cô chớp mắt, nhìn đôi mắt anh gần trong gang tấc: “Kì tiên sinh, trước kia chúng ta đã từng gặp nhau sao?”
“Trước kia là bao lâu?” Anh hỏi.
“Rất lâu rất lâu trước kia.” Cô đáp.
Anh mỉm cười: “Đã từng gặp sao? Có lẽ vậy.”
Lại qua hồi lâu.
“Kì tiên sinh?”
“Hửm?”
“Em muốn trở lại trường học. Em muốn cùng những bạn cùng lứa tham dự kỳ thi vào trường cao đẳng.”
“Được.”
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook