Căn Phòng Nhung Nhớ
-
Chương 21: Suốt đời yêu tự do
Giang Hải – Quá khứ hoàn thành
Nếu lúc đầu lựa chọn để tình yêu ở lại, có lẽ bây giờ sẽ càng cô độc.
Thái Mãn Tâm quay về chỗ trọ, tắm nước nóng. Tề Dực đợi cô ở đại sảnh, nhìn sắc mặt nhợt nhạt của cô, không khỏi có chút lo lắng. Nhưng anh biết lúc này khuyên Thái Mãn Tâm quay về cũng vô ích. Cô nóng lòng muốn nghe tất cả những gì liên quan đến Giang Hải.
Đó là chuyện quá khứ đã lâu Tề Dực không nhắc tới.
“Lúc ở Đam Hóa, cô nói với tôi là ngày trước có bạn học cấp ba ở đây, vì nghịch ngợm nên suốt ngày bị giáo viên phạt đứng hoặc là chạy vòng quanh sân vận động. Về sau anh ta muốn nghịch ngợm thì sẽ kéo một, hai học sinh ưu tú cùng chịu tội”. Tề Dực chỉ vào mình: “Thật không may, tôi chính là người phải chịu tội cùng.”
“Mấy năm nay ở Đồng Cảng và thị trấn Bạch Sa, tôi lần lượt nghe nói đến một số chuyện của A Hải”. Thái Mãn Tâm bưng cốc trà nóng, chậm rãi nói: “Vì trường trung học ở Đồng Cảng chỉ có khối cấp hai nên tất cả học sinh quanh đó đều phải đến Đam Hóa học cấp ba. Hồi A Hải học cấp hai, bố qua đời, vườn cây ăn quả trong nhà đều là do anh ấy thay mẹ trông nom, lớp tám học lại một năm. Trong kỳ thi lên lớp, thành tích của anh ấy cũng đứng số một, số hai toàn trường. Nhưng đến Đam Hóa phải ở ký túc, không thể tiếp tục chăm sóc vườn cây ăn quả.
Anh ấy nghe nói có người buôn bán ở biên giới kiếm được tiền, không bàn bạc với bất kỳ ai, để lại cho mẹ một bức thư rồi chạy đến Đông Hưng. Lúc đầu là giúp chuyển hàng, sau đó liên hệ bên mua bên bán. Anh ấy thông minh lanh lợi, mặc dù nhỏ tuổi nhưng có thể chịu được khổ, giữ chữ tín nên rất được tin tưởng ở Đông Hưng và Móng Cái. Hồi ấy anh ấy giúp một xưởng dệt ở Quảng Tây tìm khách hàng ở Việt Nam rồi lại bán một lô hàng inox sang đó, tiền kiếm được đều gửi vể nhà để mẹ kinh doanh một cửa hàng nhỏ.
Có mấy nhà buôn bán đều muốn A Hải giúp nhưng cũng có mấy người lớn tuổi và đồng hương khuyên anh ấy quay về học tiếp. Mẹ của A Hải cũng rất hy vọng anh ấy có thể quay lại trường. Mấy lần đi cầu xin giáo viên cấp hai và cấp ba. Cuối cùng họ đồng ý cho A Hải học lại nhưng yêu cầu anh phải tham gia một cuộc thi nhập học. Nhưng tôi nghĩ chỉ cần chịu học, đề thi cấp hai đối với anh ấy không có gì khó”.
Tề Dực gật đầu: “Hồi nhập học, cậu ấy lớn hơn học sinh trong lớp hai, ba tuổi. Hơn nữa vì đã từng xông pha bên ngoài nên trông già dặn hơn rất nhiều”.
“Già dặn?”. Thái Mãn Tâm không kìm được mỉm cười: “Anh ấy đã từng nói với tôi, hồi học cấp ba, anh ấy thường xuyên trốn giờ tự học buổi tối hoặc là ngủ trong giờ. Thầy giáo dùng phấn ném anh ấy, anh ấy liền nhặt lên ném lại, vừa vặn ném vào hộp phấn trên bục giảng. Thầy giáo rất tức giận, bắt anh ấy chọn phạt đứng ở cửa hay là chạy vòng quanh sân vận động. Anh ấy chọn đi chạy, nói là còn tốt hơn ở lì trong phòng học, làm hết đề thi này đến đề thi khác”.
“Về sau tôi và cậu ấy thân nhau, bời vì chúng tôi đều ở trong đội bóng chuyền của trường”. Tề Dực nói: “Cô đoán xem cậu ấy sở trường đánh ở vị trí nào?”.
“Chủ công?”.
“Chuyền 2. Vị trí đập bóng của cậu ấy rất tốt, dễ dàng có thể đánh vào góc chết của đối phương”.
“Có phải là những kỹ thuật khác của anh ấy không tốt, chỉ có thể đánh chuyền 2?”.
Tề Dực lắc đầu: “Cậu ấy nói mình làm ăn buôn bán chính là người dắt đầu mối, thích hợp làm chuyền 2?”.
“Hồi ấy anh ấy đã bắt đầu chơi guitar rồi sao?”. Thái Mãn Tâm hỏi. Cô ôm gối ngồi ở một đầu ghế sofa, dựa đầu vào lưng ghế.
“Hồi ấy trong số những nam sinh sống ở trường, rất nhiều người bắt đầu nghe rock. Bố của A Hải đã từng mua cho cậu ấy một cây guitar. Cậu ấy thường xuyên trốn học, đi tìm những người chơi đàn. Về sau cậu ấy nghe nói hồi nhỏ tôi đã từng học đàn liền hỏi tôi có muốn lập một ban nhạc không. Cậu ấy nói có một số ban nhạc, ví dụ Scorpions nổi tiếng nhờ guitar đôi. Chúng tôi còn tìm một bạn học đàn piano làm keyboard, chắp ghép, biểu diễn trong bữa tiệc năm mới ở trường”.
“Hát Wind of Change của Scorpions?”
“Không, là Trời cao biển rộng của Beyond[1]”.
[1] Ban nhạc rock nổi tiếng nhất của Hồng Kông thành lập năm 1983 viết về các vấn đề xã hội, quan điểm chính trị, hòa bình nhân loại và tư tưởng sống.
“Hãy thứ lỗi cho anh vì yêu tự do suốt đời…”. Thái Mãn Tâm cười: “Rất phù hợp”.
“Đây chỉ là bài thứ nhất. Bài thứ hai là khi tổng duyệt, Giang Hải nói nếu ai sợ bị giáo viên mắng có thể không hát”.
“Là bài gì?”
“Chúng tôi đăng ký Cô bạn cùng bàn, nhưng thực ra người dẫn chương trình vừa xuống, chúng tôi liền bắt đầu hát Cô nàng xinh đẹp của Hà Dũng”.
Thái Mãn Tâm bật cười: “Hồi ấy các anh mới bao nhiêu tuổi, giáo viên không phát điên sao?”.
Tề Dực cũng cười: “Đề nghị đó của A Hải, chúng tôi đều không phản đối”.
Thái Mãn Tâm tưởng tượng một nhóm thiếu niên mười mấy tuổi đứng trên sân khấu hát “Lưỡi của anh là một món ăn ngon để em tùy sức thưởng thức”, không khỏi rùng mình: “Nếu giáo viên của các anh hiểu lời bài hát mà không nổi cáu thì đúng là chuyện lạ”.
Tề Dực gượng cười: “Sao có chuyện đó chứ, vừa hát câu ấy, cô quản lý học sinh ngồi hàng ghế đầu mặt biến sắc, hát đến câu tiếp theo ‘Em ôm con anh vẫn còn muốn’, Cô ấy đứng phắt dậy, chỉ muốn tháo giầy cao gót ném lên sân khấu. Chúng tôi còn hung hăng cởi áo khoác ném xuống đất, phía dưới là tiếng hoan hô và huýt sáo. Buổi biểu diễn kết thúc, chúng tôi bị gọi lên phòng quản lý học sinh, tất cả đều phải viết bản kiểm điểm. Giang Hải đòi một mình gánh trách nhiệm nhưng mấy người chúng tôi đều kéo cậu ấy, nói tất cả cùng chịu”.
Thái Mãn Tâm nhớ lại lời Tề Dực từng nói, anh muốn nghịch ngợm nhưng đều được giáo viên bỏ qua, liền hỏi: “Vì có một học sinh ưu tú như anh, thầy giáo không muốn làm khó, vì thế chỉ mắng nhẹ, đúng không?”.
Tề Dực gật đầu.
“Giang Hải thật xảo quyệt”. Cô ho hai tiếng: “Rõ ràng là có âm mưu từ trước, kéo anh xuống nước”.
“Thực ra trong lòng tất cả mọi người ít nhiều đều có chút chống đối, chỉ có điều bình thường không dám biểu lộ ra ngoài. Có điều về sau mấy người chúng tôi suốt ngày tụ tập với nhau, bọn họ đều gọi tôi là ‘lão quái’ ”.
“Lão quái?”.
“Bởi vì mọi người nói Tề Dực khác người, chi bằng gọi luôn là kỳ quái”.
Thái Mãn Tâm không còn chút sức lực nào nhưng hai mắt thì sáng lấp lánh. Cô không chịu đi nghỉ, đòi Tề Dực kể về những chuyện thú vị hồi học cấp ba.
“Anh nói sau khi tôi rời khỏi Đồng Cảng, anh đã từng đến đó và gặp A Hải?”. Cô có chút chần chừ: “Vậy anh ấy…”.
Anh ấy có nhắc đến tôi không? Có kể những chuyện về tôi trước mặt bạn thân không?
Cho dù, chỉ là vài lời.
“Cô biết đấy, từ trước đến nay A Hải rất ít nói chuyện của mình. Nhưng khoảng thời gian ấy cậu ấy nên đến Đông Hưng làm ăn, có điều lại phá lệ ở lại Đồng Cảng hai tháng. Tôi hỏi cậu ấy vì sao không đi Đông Hưng và Móng Cái, cậu ấy không trả lời, chỉ nói là muốn đi Bắc Kinh một chuyến, nói mình nhớ thời tiết mùa đông ở đó, có thể ăn lẩu, uống Nhị Oa Đầu, còn nói có người mời. Tôi hỏi là ai thì cậu ấy lấy tấm ảnh một du khách gửi tới đó”.
“Tấm ảnh nào?”. Thái Mãn Tâm nghe thấy giọng nói của mình đang run rẩy.
“Cậu ấy chỉ lấy ra, liếc qua rồi ném ra sau tủ”. Tề Dực đáp: “Chính là tấm ảnh cô và cậu ấy mặc áo phông có mũ”.
“Tôi không có tấm ấy”. Thái Mãn Tâm lắc đầu: “Tôi không có bất kỳ một tấm ảnh nào trong chuyến đi lần ấy. Vốn dĩ chụp rất nhiều nhưng sau đó xóa hết”.
Hai người im lặng nhìn nhau.
Thái Mãn Tâm khẽ cười một tiếng: “Như thế thì có thể chứng minh cái gì chứ? Tôi cũng sẽ không tự mình đa tình, nghĩ rằng anh ấy không quên mình. Anh ấy không nói gì cả, đúng không? Tôi không tin mình có thể gây ảnh hưởng tới cuộc sống của anh ấy. Tôi cũng không muốn hỏi cái gì công bằng không công bằng nữa. Tôi không có cơ hội cứu vãn kết cục này”.
Cảm giác mệt mỏi ập tới, Thái Mãn Tâm muốn thu mình lại: “Tôi buồn ngủ quá”. Cô dụi mắt: “Khi nào tỉnh nói chuyện tiếp nhé”. Cô biết Tề Dực còn biết rất nhiều chuyện quá khứ của Giang Hải, thậm chí là chuyện giữa anh và Nguyễn Thanh Mai. Nhưng lúc này bỗng nhiên cô cảm thấy sợ hãi, sợ rằng bong bóng hạnh phúc vừa mới xuất hiện sẽ lại tan biến.
Đúng vậy, ngoài miệng thì cô cứ nhắc đi nhắc lại lý trí của mình nhưng trong lòng sao có thể không mong chờ? Anh nói muốn đi Bắc Kinh, anh nói muốn ăn lẩu uống rượu trắng trong những ngày tuyết rơi trắng trời. Những chuyện này, những chuyện kia, những lời tỏ tình và những gì đã từng hứa thì ra không chỉ một mình cô nhớ.
Cho dù Giang Hải đã từng nhắc đến chuyện này, có lòng cũng không được, vô tình cũng chẳng sao. Bây giờ tất cả đã không thể trở thành hiện thực.
Khi ở Đồng Cảng, Thái Mãn Tâm rất ít khi có bất kỳ cảm giác cô đơn buồn chán nào. Dường như anh gần ngay trước mặt hoặc chỉ cần đi vòng qua một góc phố là có thể gặp được anh. Nhưng lúc này đây, cô lại bị cảm giác cô đơn đeo bám. Đây là một cảm giác đắng chát nhưng không ai có thể chia sẻ được. Cô phải tự mình gặm nhấm tấy cả những hồi ức đau khổ thì mới có thể biến nó trở thành vô vị. Nhưng quá trình này dài đằng đẵng giống như vĩnh viễn sẽ không bao giờ kết thúc.
Lúc nửa tỉnh nửa mơ Thái Mãn Tâm thấy đầu như muốn nổ tung ra. Cô không ngủ được, liền mở mắt, nhìn bầu trời xanh xám nhuốm sắc hồng. Giống cái gì nhỉ? Giống hoàng hôn bên bờ biển khi cùng anh ngắm bên cầu, mây đen và giáng chiều gặp nhau, màu đen xám và hồng phấn giao nhau, từ từ lan tỏa.
Chỉ có buổi sáng sớm se lạnh nửa tỉnh nửa mơ như thế này cô có thể thả mình nhớ đến anh. Không nghĩ đến sự phản bội xấu xa, chỉ có hạnh phúc. Hồi ức chân thực, nỗi mong ngóng hư vô đều không bận tâm, chỉ là một giấc mơ. Khi trời sáng, ánh nắng mặt trời sẽ xua tan tất cả những cảm xúc mơ hồ như màn sương buổi sớm.
Lúc này Tề Dực cũng cảm thấy cái lạnh của buổi sáng bò qua da thịt. Chiếc áo sơ mi vẫn chưa khô trong thời tiết ẩm ướt, thế nên anh mặc áo phông cộc tay, để lộ một phần cánh tay. Anh ngồi trên bậc thềm đầy rêu còn đọng lại những giọt sương. Lúc đứng dậy, quần bò dính rên xanh thẫm. Anh đi đến trước cửa phòng Thái Mãn Tâm, quay đi rồi lại quay lại. Suốt ba năm qua, chú ý đến từng thông tin có liên quan đến cô, tưởng rằng đã rất quen thuộc rồi. Nhưng hôm nay, cuối cùng tìm thấy nơi cô ở, cách một cánh cửa hoặc một bức tường, nhưng lại phát hiện xa vời như cách trăm núi ngàn sông.
Gần đến trưa mà chưa thấy Thái Mãn Tâm xuất hiện, Tề Dực cảm thấy bất an trong lòng. Anh đến quầy lễ tân và hỏi: “Cô Thái phòng 204 có phải đã trả phòng rồi không?”.
Đối phương lắc đầu: “Hôm nay vẫn chưa nhìn thấy cô ấy”.
Gõ cửa phòng cô, gõ rất lâu mới thấy Thái Mãn Tâm hỏi với giọng khàn đặc: “Ai đấy?”.
“Là tôi”. Anh trả lời: “Cô không sao chứ?”.
Cô mở cửa, sắc mặt tiều tụy: “Không sao, lúc nãy tôi dậy rồi, vốn định nằm thêm một chút, nào ngờ ngủ đến tận bây giờ”.
Tề Dực biết chắc chắn đêm cô ngủ không ngon giấc, cũng không hỏi tiếp nữa.
“Sao mũi lại đỏ thế này? Hôm qua dính mưa bị cảm lạnh đúng không?”. Anh dùng mu bàn tay kiểm tra nhiệt độ trên trán cô: “Cô có mang thuốc hạ sốt không? Tôi có Aspirin”.
“Không sao, tôi vẫn ổn, chỉ là cảm lạnh thôi, ngủ thêm một chút là được”. Thái Mãn Tâm ngả người vào ghế, day huyệt Thái Dương: “Tôi muốn ngày mai đi Sài Gòn. Hàng xóm của Thu Trang đều làm việc ở đó, họ nói đã từng gặp A Mai ở trước cửa cao ốc Tân Hoa ở quận Nhất. Vốn dĩ anh ta muốn lại chào một tiếng nhưng bảo vệ của tòa nhà rất nghiêm, không cho vào tùy tiện”.
“Vé xe cứ để tôi lo”. Tề Dực không hề ngăn cản: “Cô cứ nghỉ ngơi đi, tôi đến Sinh Café đặt vé xe ngày mai cho cô”.
“Vâng”. Thái Mãn Tâm đáp lại một tiếng, quay về lấy vé xe du lịch đưa cho anh. Cô biết không cần hỏi, Tề Dực cũng sẽ cùng mình đến Sài Gòn.
Bởi vì anh là bạn thân của Giang Hải, trong lòng càng cảm thấy thân thiết. Nhưng vì sao anh lại đến Đồng Cảng, vì sao lại vượt đường xá xa xôi đến Việt Nam tìm cô, còn cái ôm và nụ hôn bất ngờ sau khi say rượu ở Đam Hóa, Thái Mãn Tâm không muốn suy nghĩ nhiều. Có người ở bên sẽ tốt hơn. Cô không dũng cảm tới mức có thể một mình đối mặt với tất cả. Nếu thật sự tìm thấy Nguyễn Thanh Mai ở Sài Gòn, cô không biết mình có bị nỗi sợ hãi, bất lực vây hãm một lần nữa hay không.
Tề Dực mua cháo trắng và rau ở một nhà hàng Trung Quốc. Thái Mãn Tâm ăn hai miếng, ngủ mê man suốt cả buổi chiều. Chiều tối thức dậy, tinh thần tốt hơn rất nhiều, cũng thấy đói bụng.
“Ra ngoài đi dạo đi?”. Cô gõ cửa phòng Tề Dực, nghiêng đầu, mỉm cười có chút ngượng ngùng: “Tôi đói đến mức da bụng dính vào da lưng rồi”.
“Đúng vậy, ăn no rồi mới có thể hồi phục nhanh”. Tề Dực lấy ba lô: “Đi thôi, tôi đưa cô đi ăn ‘hoa hồng trắng’ (tên gọi khác của bánh vạc) và cao lầu”.
Ngày hôm ấy là ngày mười lăm âm lịch, toàn thành phố đều tắt điện, các nhà đều treo những chiếc đèn lồng đủ loại màu sắc trước cửa, ánh đèn in bóng xuống sông Thu Bồn. Rất nhiều hàng ăn nhỏ và quán cà phê bày bàn ghế ở bên đường. Hai người chọn một nhà hàng, chiếc bàn tròn dưới gốc cây xoài được trải khăn màu xanh lam, bày chiếc lọ sứ trắng cắm hai bông hoa tường vi màu hồng phấn. Trên cây có treo đèn lồng, chiếu những vệt sáng loang lổ xuống mặt bàn.
Món bánh vạc nổi tiếng trong vùng trông giống sủi cảo kiểu Quảng Đông, nhân bánh là thịt lợn và tôm xay được bọc một lớp bột bánh mỏng, trông giống một nụ hoa sắp nở; còn có đậu xanh, hai bên là bột nếp màu xanh, ở giữa có nhân được làm từ bột đậu xanh, rắc một lớp dừa thái sợi, có mùi thơm nồng của đậu nhưng chỉ hơi ngọt, không ngấy chút nào, rất thích hợp với thời tiết ẩm ướt, nóng nực như thế này. Bên đường còn có những người bán hàng rong, rao bán các loại hoa quả, có những người già đan dép cói ngồi ở cửa nói chuyện với nhau.
Trong ánh trăng mờ nhạt, không biết từ đâu vọng tới tiếng hát dịu dàng, không hiểu lời bài hát, chỉ thấy thật nhẹ nhàng, miên man. Gió đêm mát lạnh, trước những căn nhà cổ lát đá xanh, những cô gái trong trang phục áo dài truyền thống thả dáng thước tha.
“Mọi người nói những cô gái ở Hội An xinh đẹp, thanh tú, dịu dàng, hiền thục”. Thái Mãn Tâm quay đầu nhìn mấy cô gái đi trên đường, mỉm cười xoay cốc trà mát trên tay: “Anh có quen Nguyễn Thanh Mai không? Cô ấy cũng như vậy sao?”.
“A Mai rất khác với những cô gái Việt Nam trong ấn tượng của mọi người. Mẹ của cô ấy là Hoa kiều, vì thế từ nhỏ cô ấy đã biết nói tiếng Trung và tiếng Việt. Cô ấy học lớp tiếng Trung ở Đam Hòa, lại được nhận học bổng của chính phủ Trung Quốc. Hồi chúng tôi học năm thứ hai cô ấy đến Bắc Kinh học. Vì là họ hàng của bà Lục, vì thế A Hải rất quan tâm chăm sóc cô ấy. Cô ấy rất ham chơi, thường xuyên đi đến quán bar cùng các lưu học sinh. Có lúc ban nhạc của chúng tôi tổng duyệt hoặc đi biểu diễn, cô ấy cũng đến cổ vũ.
Vào học kỳ một năm thứ tư, thời điểm quan trọng để giới thiệu nghiên cứu sinh đi du học, có người đã viết thư nặc danh tới khoa của A Hải, nói hành vi của cậu ấy không đúng đắn, không phù hợp với tiêu chuẩn ứng cử. Vì thế, giáo viên quản lý học sinh tìm gặp cậu ấy nói chuyện. A Hải nói: “Em không làm sai, cũng không có gì cần phải giải thích. Vốn dĩ em không muốn tranh giành suất đi này, ai thích thì cứ lấy”.
Lúc ấy chúng tôi mới biết được thì ra A Mai mang thai, lại cố chấp đòi sinh đứa bé. Mấy năm trước nhà trường rất hà khắc với chuyện này, không đồng ý kéo dài thời gian thì hoặc nghỉ học, cô ấy không thể tiếp tục được nhận học bổng của chính phủ, liền bỏ học quay về Việt Nam. Không biết vì sao chuyện này lại truyền đến trường của A Hải, thế nên bị người ta đoán già đoán non, nói cậu ấy và A Mai đi quá giới hạn.
Hồi ấy mẹ của A Hải ốm nặng, cậu ấy vội vàng về quê, sau đó mẹ cậu ấy qua đời, đợi đến khi lo liệu xong hậu sự, lúc quay trở lại Bắc Kinh thì A Mai đã về Việt Nam rồi”.
Thái Mãn Tâm bặm chặt môi, không biết nên điều chỉnh nét mặt như thế nào để ứng đối, chỉ có thể gật đầu: “Những chuyện này tôi đã nghe nói ở Đồng Cảng. Đây cũng là lý do tôi muốn tìm A Mai”.
“Sau khi tốt nghiệp đại học, Giang Hải tiếp tục đi buôn bán ở biên giới. Cậu ấy rất ít khi nói đến chuyện tình cảm của mình. Sau này tôi cũng mới biết sau khi A Mai về Việt Nam, cậu ấy nhờ người quen ở Móng Cái và Đông Hưng chăm sóc cô ấy. Nhưng cậu ấy cũng không nhắc đến A Mai với chúng tôi nữa”. Tề Dực im lặng một lúc: “Cô biết không? Hồi học đại học A Hải có một cô bạn gái rất thân thiết”.
Thái Mãn Tâm khẽ cười: “Điều đó không có nghĩa là anh ấy sẽ không phạm sai lầm, đặc biệt là với một cô gái xinh đẹp”.
“Được, không nói đến vấn đề này”. Tề Dực nói: “Theo những gì tôi biết về A Hải, nếu thực sự A Mai có đứa con của cậu ấy, tôi không tin cậu ấy sẽ bỏ mặc”.
“Anh ấy nói, anh ấy không bao giờ hứa hẹn với người khác”.
“Đó là bởi vì cậu ấy biết giữ lời hứa rất khó. Nhưng nếu là trách nhiệm của cậu ấy thì cậu ấy sẽ không trốn tránh”. Tề Dực nói: “Xem ra cô không hề tin A Hải”.
“Không phải tôi không tin”. Thái Mãn Tâm mỉm cười có chút ngượng ngùng: “Mà là không hiểu anh ấy. Tình cảm của tôi đối với anh ấy là tình yêu đơn phương, rất mù quáng”.
Nếu lúc đầu lựa chọn để tình yêu ở lại, có lẽ bây giờ sẽ càng cô độc.
Thái Mãn Tâm quay về chỗ trọ, tắm nước nóng. Tề Dực đợi cô ở đại sảnh, nhìn sắc mặt nhợt nhạt của cô, không khỏi có chút lo lắng. Nhưng anh biết lúc này khuyên Thái Mãn Tâm quay về cũng vô ích. Cô nóng lòng muốn nghe tất cả những gì liên quan đến Giang Hải.
Đó là chuyện quá khứ đã lâu Tề Dực không nhắc tới.
“Lúc ở Đam Hóa, cô nói với tôi là ngày trước có bạn học cấp ba ở đây, vì nghịch ngợm nên suốt ngày bị giáo viên phạt đứng hoặc là chạy vòng quanh sân vận động. Về sau anh ta muốn nghịch ngợm thì sẽ kéo một, hai học sinh ưu tú cùng chịu tội”. Tề Dực chỉ vào mình: “Thật không may, tôi chính là người phải chịu tội cùng.”
“Mấy năm nay ở Đồng Cảng và thị trấn Bạch Sa, tôi lần lượt nghe nói đến một số chuyện của A Hải”. Thái Mãn Tâm bưng cốc trà nóng, chậm rãi nói: “Vì trường trung học ở Đồng Cảng chỉ có khối cấp hai nên tất cả học sinh quanh đó đều phải đến Đam Hóa học cấp ba. Hồi A Hải học cấp hai, bố qua đời, vườn cây ăn quả trong nhà đều là do anh ấy thay mẹ trông nom, lớp tám học lại một năm. Trong kỳ thi lên lớp, thành tích của anh ấy cũng đứng số một, số hai toàn trường. Nhưng đến Đam Hóa phải ở ký túc, không thể tiếp tục chăm sóc vườn cây ăn quả.
Anh ấy nghe nói có người buôn bán ở biên giới kiếm được tiền, không bàn bạc với bất kỳ ai, để lại cho mẹ một bức thư rồi chạy đến Đông Hưng. Lúc đầu là giúp chuyển hàng, sau đó liên hệ bên mua bên bán. Anh ấy thông minh lanh lợi, mặc dù nhỏ tuổi nhưng có thể chịu được khổ, giữ chữ tín nên rất được tin tưởng ở Đông Hưng và Móng Cái. Hồi ấy anh ấy giúp một xưởng dệt ở Quảng Tây tìm khách hàng ở Việt Nam rồi lại bán một lô hàng inox sang đó, tiền kiếm được đều gửi vể nhà để mẹ kinh doanh một cửa hàng nhỏ.
Có mấy nhà buôn bán đều muốn A Hải giúp nhưng cũng có mấy người lớn tuổi và đồng hương khuyên anh ấy quay về học tiếp. Mẹ của A Hải cũng rất hy vọng anh ấy có thể quay lại trường. Mấy lần đi cầu xin giáo viên cấp hai và cấp ba. Cuối cùng họ đồng ý cho A Hải học lại nhưng yêu cầu anh phải tham gia một cuộc thi nhập học. Nhưng tôi nghĩ chỉ cần chịu học, đề thi cấp hai đối với anh ấy không có gì khó”.
Tề Dực gật đầu: “Hồi nhập học, cậu ấy lớn hơn học sinh trong lớp hai, ba tuổi. Hơn nữa vì đã từng xông pha bên ngoài nên trông già dặn hơn rất nhiều”.
“Già dặn?”. Thái Mãn Tâm không kìm được mỉm cười: “Anh ấy đã từng nói với tôi, hồi học cấp ba, anh ấy thường xuyên trốn giờ tự học buổi tối hoặc là ngủ trong giờ. Thầy giáo dùng phấn ném anh ấy, anh ấy liền nhặt lên ném lại, vừa vặn ném vào hộp phấn trên bục giảng. Thầy giáo rất tức giận, bắt anh ấy chọn phạt đứng ở cửa hay là chạy vòng quanh sân vận động. Anh ấy chọn đi chạy, nói là còn tốt hơn ở lì trong phòng học, làm hết đề thi này đến đề thi khác”.
“Về sau tôi và cậu ấy thân nhau, bời vì chúng tôi đều ở trong đội bóng chuyền của trường”. Tề Dực nói: “Cô đoán xem cậu ấy sở trường đánh ở vị trí nào?”.
“Chủ công?”.
“Chuyền 2. Vị trí đập bóng của cậu ấy rất tốt, dễ dàng có thể đánh vào góc chết của đối phương”.
“Có phải là những kỹ thuật khác của anh ấy không tốt, chỉ có thể đánh chuyền 2?”.
Tề Dực lắc đầu: “Cậu ấy nói mình làm ăn buôn bán chính là người dắt đầu mối, thích hợp làm chuyền 2?”.
“Hồi ấy anh ấy đã bắt đầu chơi guitar rồi sao?”. Thái Mãn Tâm hỏi. Cô ôm gối ngồi ở một đầu ghế sofa, dựa đầu vào lưng ghế.
“Hồi ấy trong số những nam sinh sống ở trường, rất nhiều người bắt đầu nghe rock. Bố của A Hải đã từng mua cho cậu ấy một cây guitar. Cậu ấy thường xuyên trốn học, đi tìm những người chơi đàn. Về sau cậu ấy nghe nói hồi nhỏ tôi đã từng học đàn liền hỏi tôi có muốn lập một ban nhạc không. Cậu ấy nói có một số ban nhạc, ví dụ Scorpions nổi tiếng nhờ guitar đôi. Chúng tôi còn tìm một bạn học đàn piano làm keyboard, chắp ghép, biểu diễn trong bữa tiệc năm mới ở trường”.
“Hát Wind of Change của Scorpions?”
“Không, là Trời cao biển rộng của Beyond[1]”.
[1] Ban nhạc rock nổi tiếng nhất của Hồng Kông thành lập năm 1983 viết về các vấn đề xã hội, quan điểm chính trị, hòa bình nhân loại và tư tưởng sống.
“Hãy thứ lỗi cho anh vì yêu tự do suốt đời…”. Thái Mãn Tâm cười: “Rất phù hợp”.
“Đây chỉ là bài thứ nhất. Bài thứ hai là khi tổng duyệt, Giang Hải nói nếu ai sợ bị giáo viên mắng có thể không hát”.
“Là bài gì?”
“Chúng tôi đăng ký Cô bạn cùng bàn, nhưng thực ra người dẫn chương trình vừa xuống, chúng tôi liền bắt đầu hát Cô nàng xinh đẹp của Hà Dũng”.
Thái Mãn Tâm bật cười: “Hồi ấy các anh mới bao nhiêu tuổi, giáo viên không phát điên sao?”.
Tề Dực cũng cười: “Đề nghị đó của A Hải, chúng tôi đều không phản đối”.
Thái Mãn Tâm tưởng tượng một nhóm thiếu niên mười mấy tuổi đứng trên sân khấu hát “Lưỡi của anh là một món ăn ngon để em tùy sức thưởng thức”, không khỏi rùng mình: “Nếu giáo viên của các anh hiểu lời bài hát mà không nổi cáu thì đúng là chuyện lạ”.
Tề Dực gượng cười: “Sao có chuyện đó chứ, vừa hát câu ấy, cô quản lý học sinh ngồi hàng ghế đầu mặt biến sắc, hát đến câu tiếp theo ‘Em ôm con anh vẫn còn muốn’, Cô ấy đứng phắt dậy, chỉ muốn tháo giầy cao gót ném lên sân khấu. Chúng tôi còn hung hăng cởi áo khoác ném xuống đất, phía dưới là tiếng hoan hô và huýt sáo. Buổi biểu diễn kết thúc, chúng tôi bị gọi lên phòng quản lý học sinh, tất cả đều phải viết bản kiểm điểm. Giang Hải đòi một mình gánh trách nhiệm nhưng mấy người chúng tôi đều kéo cậu ấy, nói tất cả cùng chịu”.
Thái Mãn Tâm nhớ lại lời Tề Dực từng nói, anh muốn nghịch ngợm nhưng đều được giáo viên bỏ qua, liền hỏi: “Vì có một học sinh ưu tú như anh, thầy giáo không muốn làm khó, vì thế chỉ mắng nhẹ, đúng không?”.
Tề Dực gật đầu.
“Giang Hải thật xảo quyệt”. Cô ho hai tiếng: “Rõ ràng là có âm mưu từ trước, kéo anh xuống nước”.
“Thực ra trong lòng tất cả mọi người ít nhiều đều có chút chống đối, chỉ có điều bình thường không dám biểu lộ ra ngoài. Có điều về sau mấy người chúng tôi suốt ngày tụ tập với nhau, bọn họ đều gọi tôi là ‘lão quái’ ”.
“Lão quái?”.
“Bởi vì mọi người nói Tề Dực khác người, chi bằng gọi luôn là kỳ quái”.
Thái Mãn Tâm không còn chút sức lực nào nhưng hai mắt thì sáng lấp lánh. Cô không chịu đi nghỉ, đòi Tề Dực kể về những chuyện thú vị hồi học cấp ba.
“Anh nói sau khi tôi rời khỏi Đồng Cảng, anh đã từng đến đó và gặp A Hải?”. Cô có chút chần chừ: “Vậy anh ấy…”.
Anh ấy có nhắc đến tôi không? Có kể những chuyện về tôi trước mặt bạn thân không?
Cho dù, chỉ là vài lời.
“Cô biết đấy, từ trước đến nay A Hải rất ít nói chuyện của mình. Nhưng khoảng thời gian ấy cậu ấy nên đến Đông Hưng làm ăn, có điều lại phá lệ ở lại Đồng Cảng hai tháng. Tôi hỏi cậu ấy vì sao không đi Đông Hưng và Móng Cái, cậu ấy không trả lời, chỉ nói là muốn đi Bắc Kinh một chuyến, nói mình nhớ thời tiết mùa đông ở đó, có thể ăn lẩu, uống Nhị Oa Đầu, còn nói có người mời. Tôi hỏi là ai thì cậu ấy lấy tấm ảnh một du khách gửi tới đó”.
“Tấm ảnh nào?”. Thái Mãn Tâm nghe thấy giọng nói của mình đang run rẩy.
“Cậu ấy chỉ lấy ra, liếc qua rồi ném ra sau tủ”. Tề Dực đáp: “Chính là tấm ảnh cô và cậu ấy mặc áo phông có mũ”.
“Tôi không có tấm ấy”. Thái Mãn Tâm lắc đầu: “Tôi không có bất kỳ một tấm ảnh nào trong chuyến đi lần ấy. Vốn dĩ chụp rất nhiều nhưng sau đó xóa hết”.
Hai người im lặng nhìn nhau.
Thái Mãn Tâm khẽ cười một tiếng: “Như thế thì có thể chứng minh cái gì chứ? Tôi cũng sẽ không tự mình đa tình, nghĩ rằng anh ấy không quên mình. Anh ấy không nói gì cả, đúng không? Tôi không tin mình có thể gây ảnh hưởng tới cuộc sống của anh ấy. Tôi cũng không muốn hỏi cái gì công bằng không công bằng nữa. Tôi không có cơ hội cứu vãn kết cục này”.
Cảm giác mệt mỏi ập tới, Thái Mãn Tâm muốn thu mình lại: “Tôi buồn ngủ quá”. Cô dụi mắt: “Khi nào tỉnh nói chuyện tiếp nhé”. Cô biết Tề Dực còn biết rất nhiều chuyện quá khứ của Giang Hải, thậm chí là chuyện giữa anh và Nguyễn Thanh Mai. Nhưng lúc này bỗng nhiên cô cảm thấy sợ hãi, sợ rằng bong bóng hạnh phúc vừa mới xuất hiện sẽ lại tan biến.
Đúng vậy, ngoài miệng thì cô cứ nhắc đi nhắc lại lý trí của mình nhưng trong lòng sao có thể không mong chờ? Anh nói muốn đi Bắc Kinh, anh nói muốn ăn lẩu uống rượu trắng trong những ngày tuyết rơi trắng trời. Những chuyện này, những chuyện kia, những lời tỏ tình và những gì đã từng hứa thì ra không chỉ một mình cô nhớ.
Cho dù Giang Hải đã từng nhắc đến chuyện này, có lòng cũng không được, vô tình cũng chẳng sao. Bây giờ tất cả đã không thể trở thành hiện thực.
Khi ở Đồng Cảng, Thái Mãn Tâm rất ít khi có bất kỳ cảm giác cô đơn buồn chán nào. Dường như anh gần ngay trước mặt hoặc chỉ cần đi vòng qua một góc phố là có thể gặp được anh. Nhưng lúc này đây, cô lại bị cảm giác cô đơn đeo bám. Đây là một cảm giác đắng chát nhưng không ai có thể chia sẻ được. Cô phải tự mình gặm nhấm tấy cả những hồi ức đau khổ thì mới có thể biến nó trở thành vô vị. Nhưng quá trình này dài đằng đẵng giống như vĩnh viễn sẽ không bao giờ kết thúc.
Lúc nửa tỉnh nửa mơ Thái Mãn Tâm thấy đầu như muốn nổ tung ra. Cô không ngủ được, liền mở mắt, nhìn bầu trời xanh xám nhuốm sắc hồng. Giống cái gì nhỉ? Giống hoàng hôn bên bờ biển khi cùng anh ngắm bên cầu, mây đen và giáng chiều gặp nhau, màu đen xám và hồng phấn giao nhau, từ từ lan tỏa.
Chỉ có buổi sáng sớm se lạnh nửa tỉnh nửa mơ như thế này cô có thể thả mình nhớ đến anh. Không nghĩ đến sự phản bội xấu xa, chỉ có hạnh phúc. Hồi ức chân thực, nỗi mong ngóng hư vô đều không bận tâm, chỉ là một giấc mơ. Khi trời sáng, ánh nắng mặt trời sẽ xua tan tất cả những cảm xúc mơ hồ như màn sương buổi sớm.
Lúc này Tề Dực cũng cảm thấy cái lạnh của buổi sáng bò qua da thịt. Chiếc áo sơ mi vẫn chưa khô trong thời tiết ẩm ướt, thế nên anh mặc áo phông cộc tay, để lộ một phần cánh tay. Anh ngồi trên bậc thềm đầy rêu còn đọng lại những giọt sương. Lúc đứng dậy, quần bò dính rên xanh thẫm. Anh đi đến trước cửa phòng Thái Mãn Tâm, quay đi rồi lại quay lại. Suốt ba năm qua, chú ý đến từng thông tin có liên quan đến cô, tưởng rằng đã rất quen thuộc rồi. Nhưng hôm nay, cuối cùng tìm thấy nơi cô ở, cách một cánh cửa hoặc một bức tường, nhưng lại phát hiện xa vời như cách trăm núi ngàn sông.
Gần đến trưa mà chưa thấy Thái Mãn Tâm xuất hiện, Tề Dực cảm thấy bất an trong lòng. Anh đến quầy lễ tân và hỏi: “Cô Thái phòng 204 có phải đã trả phòng rồi không?”.
Đối phương lắc đầu: “Hôm nay vẫn chưa nhìn thấy cô ấy”.
Gõ cửa phòng cô, gõ rất lâu mới thấy Thái Mãn Tâm hỏi với giọng khàn đặc: “Ai đấy?”.
“Là tôi”. Anh trả lời: “Cô không sao chứ?”.
Cô mở cửa, sắc mặt tiều tụy: “Không sao, lúc nãy tôi dậy rồi, vốn định nằm thêm một chút, nào ngờ ngủ đến tận bây giờ”.
Tề Dực biết chắc chắn đêm cô ngủ không ngon giấc, cũng không hỏi tiếp nữa.
“Sao mũi lại đỏ thế này? Hôm qua dính mưa bị cảm lạnh đúng không?”. Anh dùng mu bàn tay kiểm tra nhiệt độ trên trán cô: “Cô có mang thuốc hạ sốt không? Tôi có Aspirin”.
“Không sao, tôi vẫn ổn, chỉ là cảm lạnh thôi, ngủ thêm một chút là được”. Thái Mãn Tâm ngả người vào ghế, day huyệt Thái Dương: “Tôi muốn ngày mai đi Sài Gòn. Hàng xóm của Thu Trang đều làm việc ở đó, họ nói đã từng gặp A Mai ở trước cửa cao ốc Tân Hoa ở quận Nhất. Vốn dĩ anh ta muốn lại chào một tiếng nhưng bảo vệ của tòa nhà rất nghiêm, không cho vào tùy tiện”.
“Vé xe cứ để tôi lo”. Tề Dực không hề ngăn cản: “Cô cứ nghỉ ngơi đi, tôi đến Sinh Café đặt vé xe ngày mai cho cô”.
“Vâng”. Thái Mãn Tâm đáp lại một tiếng, quay về lấy vé xe du lịch đưa cho anh. Cô biết không cần hỏi, Tề Dực cũng sẽ cùng mình đến Sài Gòn.
Bởi vì anh là bạn thân của Giang Hải, trong lòng càng cảm thấy thân thiết. Nhưng vì sao anh lại đến Đồng Cảng, vì sao lại vượt đường xá xa xôi đến Việt Nam tìm cô, còn cái ôm và nụ hôn bất ngờ sau khi say rượu ở Đam Hóa, Thái Mãn Tâm không muốn suy nghĩ nhiều. Có người ở bên sẽ tốt hơn. Cô không dũng cảm tới mức có thể một mình đối mặt với tất cả. Nếu thật sự tìm thấy Nguyễn Thanh Mai ở Sài Gòn, cô không biết mình có bị nỗi sợ hãi, bất lực vây hãm một lần nữa hay không.
Tề Dực mua cháo trắng và rau ở một nhà hàng Trung Quốc. Thái Mãn Tâm ăn hai miếng, ngủ mê man suốt cả buổi chiều. Chiều tối thức dậy, tinh thần tốt hơn rất nhiều, cũng thấy đói bụng.
“Ra ngoài đi dạo đi?”. Cô gõ cửa phòng Tề Dực, nghiêng đầu, mỉm cười có chút ngượng ngùng: “Tôi đói đến mức da bụng dính vào da lưng rồi”.
“Đúng vậy, ăn no rồi mới có thể hồi phục nhanh”. Tề Dực lấy ba lô: “Đi thôi, tôi đưa cô đi ăn ‘hoa hồng trắng’ (tên gọi khác của bánh vạc) và cao lầu”.
Ngày hôm ấy là ngày mười lăm âm lịch, toàn thành phố đều tắt điện, các nhà đều treo những chiếc đèn lồng đủ loại màu sắc trước cửa, ánh đèn in bóng xuống sông Thu Bồn. Rất nhiều hàng ăn nhỏ và quán cà phê bày bàn ghế ở bên đường. Hai người chọn một nhà hàng, chiếc bàn tròn dưới gốc cây xoài được trải khăn màu xanh lam, bày chiếc lọ sứ trắng cắm hai bông hoa tường vi màu hồng phấn. Trên cây có treo đèn lồng, chiếu những vệt sáng loang lổ xuống mặt bàn.
Món bánh vạc nổi tiếng trong vùng trông giống sủi cảo kiểu Quảng Đông, nhân bánh là thịt lợn và tôm xay được bọc một lớp bột bánh mỏng, trông giống một nụ hoa sắp nở; còn có đậu xanh, hai bên là bột nếp màu xanh, ở giữa có nhân được làm từ bột đậu xanh, rắc một lớp dừa thái sợi, có mùi thơm nồng của đậu nhưng chỉ hơi ngọt, không ngấy chút nào, rất thích hợp với thời tiết ẩm ướt, nóng nực như thế này. Bên đường còn có những người bán hàng rong, rao bán các loại hoa quả, có những người già đan dép cói ngồi ở cửa nói chuyện với nhau.
Trong ánh trăng mờ nhạt, không biết từ đâu vọng tới tiếng hát dịu dàng, không hiểu lời bài hát, chỉ thấy thật nhẹ nhàng, miên man. Gió đêm mát lạnh, trước những căn nhà cổ lát đá xanh, những cô gái trong trang phục áo dài truyền thống thả dáng thước tha.
“Mọi người nói những cô gái ở Hội An xinh đẹp, thanh tú, dịu dàng, hiền thục”. Thái Mãn Tâm quay đầu nhìn mấy cô gái đi trên đường, mỉm cười xoay cốc trà mát trên tay: “Anh có quen Nguyễn Thanh Mai không? Cô ấy cũng như vậy sao?”.
“A Mai rất khác với những cô gái Việt Nam trong ấn tượng của mọi người. Mẹ của cô ấy là Hoa kiều, vì thế từ nhỏ cô ấy đã biết nói tiếng Trung và tiếng Việt. Cô ấy học lớp tiếng Trung ở Đam Hòa, lại được nhận học bổng của chính phủ Trung Quốc. Hồi chúng tôi học năm thứ hai cô ấy đến Bắc Kinh học. Vì là họ hàng của bà Lục, vì thế A Hải rất quan tâm chăm sóc cô ấy. Cô ấy rất ham chơi, thường xuyên đi đến quán bar cùng các lưu học sinh. Có lúc ban nhạc của chúng tôi tổng duyệt hoặc đi biểu diễn, cô ấy cũng đến cổ vũ.
Vào học kỳ một năm thứ tư, thời điểm quan trọng để giới thiệu nghiên cứu sinh đi du học, có người đã viết thư nặc danh tới khoa của A Hải, nói hành vi của cậu ấy không đúng đắn, không phù hợp với tiêu chuẩn ứng cử. Vì thế, giáo viên quản lý học sinh tìm gặp cậu ấy nói chuyện. A Hải nói: “Em không làm sai, cũng không có gì cần phải giải thích. Vốn dĩ em không muốn tranh giành suất đi này, ai thích thì cứ lấy”.
Lúc ấy chúng tôi mới biết được thì ra A Mai mang thai, lại cố chấp đòi sinh đứa bé. Mấy năm trước nhà trường rất hà khắc với chuyện này, không đồng ý kéo dài thời gian thì hoặc nghỉ học, cô ấy không thể tiếp tục được nhận học bổng của chính phủ, liền bỏ học quay về Việt Nam. Không biết vì sao chuyện này lại truyền đến trường của A Hải, thế nên bị người ta đoán già đoán non, nói cậu ấy và A Mai đi quá giới hạn.
Hồi ấy mẹ của A Hải ốm nặng, cậu ấy vội vàng về quê, sau đó mẹ cậu ấy qua đời, đợi đến khi lo liệu xong hậu sự, lúc quay trở lại Bắc Kinh thì A Mai đã về Việt Nam rồi”.
Thái Mãn Tâm bặm chặt môi, không biết nên điều chỉnh nét mặt như thế nào để ứng đối, chỉ có thể gật đầu: “Những chuyện này tôi đã nghe nói ở Đồng Cảng. Đây cũng là lý do tôi muốn tìm A Mai”.
“Sau khi tốt nghiệp đại học, Giang Hải tiếp tục đi buôn bán ở biên giới. Cậu ấy rất ít khi nói đến chuyện tình cảm của mình. Sau này tôi cũng mới biết sau khi A Mai về Việt Nam, cậu ấy nhờ người quen ở Móng Cái và Đông Hưng chăm sóc cô ấy. Nhưng cậu ấy cũng không nhắc đến A Mai với chúng tôi nữa”. Tề Dực im lặng một lúc: “Cô biết không? Hồi học đại học A Hải có một cô bạn gái rất thân thiết”.
Thái Mãn Tâm khẽ cười: “Điều đó không có nghĩa là anh ấy sẽ không phạm sai lầm, đặc biệt là với một cô gái xinh đẹp”.
“Được, không nói đến vấn đề này”. Tề Dực nói: “Theo những gì tôi biết về A Hải, nếu thực sự A Mai có đứa con của cậu ấy, tôi không tin cậu ấy sẽ bỏ mặc”.
“Anh ấy nói, anh ấy không bao giờ hứa hẹn với người khác”.
“Đó là bởi vì cậu ấy biết giữ lời hứa rất khó. Nhưng nếu là trách nhiệm của cậu ấy thì cậu ấy sẽ không trốn tránh”. Tề Dực nói: “Xem ra cô không hề tin A Hải”.
“Không phải tôi không tin”. Thái Mãn Tâm mỉm cười có chút ngượng ngùng: “Mà là không hiểu anh ấy. Tình cảm của tôi đối với anh ấy là tình yêu đơn phương, rất mù quáng”.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook