Cẩm Tú Kỳ Bào
-
Chương 18: Cảnh mộng
Tôi bưng lấy miệng, nước mắt bỗng nhiên trào ra, khiến tầm nhìn trở nên mơ hồ, tôi kéo tay Đường Triêu chầm chậm đi về phía đó. Gần hơn, gần hơn tôi nhìn thấy một xẻng đất bùn đang che phủ lên khuôn mặt già nua. Hình ảnh cuối cùng thoáng qua mắt tôi là mụn ruồi màu đen ngay giữa chân mày. Tôi nức nở thành tiếng, cái người vẫn đứng sau lưng chúng tôi từ từ quay lại. Khoảng cách rất gần, gần tới mức chúng tôi có thể ngửi thấy mùi hương nhàn nhạt trên cơ thể bà, là mùi xạ hương, thân quen biết chừng nào...
Đêm hôm đó tôi ngủ rất ngon, có lẽ nguyên nhân là vì quá mệt, hưng cũng có lẽ là bởi trái tim bị giam cầm nhiều ngày qua trong thù hận đã được phóng thích. Ngày hôm sau khi tỉnh dậy đã đến giờ trưa. Tôi lười nhác ngồi tựa trên ghế mây phơi nắng, nếu như không phải là nhận được điện thoại của Đường Triêu thì chắc tôi sẽ cứ ngồi vậy cho tới khi màn đêm buông xuống.
Khi tôi đến cửa hàng của Đường Triêu, hai thầy trò bọn họ đang uống trà. Mặt sư phụ Đường Triêu đỏ bừng bừng, còn anh thì tỏ vẻ không mấy tự nhiên. Nhìn thấy tôi, sư phụ của anh dằn mạnh chén trà xuống chiếc bàn gốc cây, chiếc chén nhỏ xinh bằng sứ màu trắng xoay mấy vòng trên mặt bàn nhưng rồi cũng không lăn xuống đất, chỉ có nước trà trong chén chưa uống hết là bắn tóe ra xung quanh. Dưới đáy chiếc ấm trong suốt là những lá trà màu trắng bạc, trà đã nhạt màu như nước, trong không gian thoang thoảng mùi hương nhẹ như có như không. Tôi làm bộ không để ý đến sự giận dữ của ông ấy, ngồi xuống rồi thản nhiên rót cho mình một chén trà, khẽ đưa lên nhấp một ngụm rồi khen: "Bạch trà thơm quá".
Thấy ánh mắt Đường Triêu nhìn mình đầy vẻ day dứt, tôi mỉm cười với anh, tỏ ý rằng mình không quan tâm đến thái độ đó của sư phụ. Đường Triêu bèn kéo sư phụ ra bên ngoài, còn tôi vẫn ngồi yên bên trong vờ như nhàn nhã nhấm nháp chén trà. Tiếng cãi nhau của họ từ bên ngoài vọng vào.
"Sư phụ, sao sư phụ lại tỏ thái độ như vậy với Tiểu Ảnh? Cô ấy không làm gì sai cả".
"Lần đầu tiên nhìn thấy cô ta sư phụ đã có cảm giác muộn phiền bực bội trong lòng rồi, sao con lại đi lo mấy chuyện này kia chứ?".
"Sư phụ biết tính con rồi đấy, không làm thì thôi, nhưng nếu đã bắt đầu thì con sẽ làm đến cùng mới thôi. Nếu như sư phụ không muốn giúp con thì đành vậy, con nghĩ một mình con cũng sẽ làm rõ được".
"Không phải là ta không muốn giúp. Đường Triêu, ta không thể tìm ra manh mối nào, có biết vì sao hôm đó ta chỉ có thể giúp các con nhìn thấy Tần Tịnh và người đàn ông của cô ta không? Bởi vì những mối hận thù cũ đều đã bị người niêm phong những tấm kỳ bào đó đóng khóa lại rồi, nếu muốn mở thì chúng ta phải đi tìm người đã yểm bùa niêm phong ấy. Chỉ có ông ta mới có thể giúp chúng ta giải được những bí ẩn này".
"Cũng đã mấy chục năm rồi, chúng ta làm sao mà tìm được người ấy?".
"Là lá bùa đó!". Tôi đứng dậy đi ra cửa, nói tiếp lời Đường Triêu. Cuối cùng tôi đã biết sự thiếu kiên nhẫn của sư phụ Đường Triêu là vì cảm thấy mù mịt và bực bội, còn cả việc không đồng ý cho Đường Triêu dính dáng vào tôi nữa.
"Vậy thì chúng ta lại phải đến nhà họ Hà một lần nữa ư?".
Sư phụ của Đường Triêu gật đầu, nói tiếp với vẻ trầm ngâm :
"Thực ra người đã đặt bùa niêm phong rất có thể là sư huynh của ta, bởi vì khi đó chỉ ta và huynh ấy có chút tiếng tăm trong giới này. Ta sẽ cho con địa chỉ nhà huynh ấy, con và Lý Ảnh đến nhà họ Hà lấy lá bùa mang đến đó hỏi trực tiếp huynh ấy là được. Hiện giờ anh ấy đã lui về ở ẩn, không thích lo mấy chuyện này nữa, nếu đi người không chắc chắn huynh ấy sẽ không thừa nhận. Song huynh ấy là người rất có trách nhiệm, nên khi trông thấy lá bùa biết là việc mình đã làm trước đó, chắc chắn sẽ lo liệu tiếp".
Vì không muốn làm kinh động đến người nhà họ Hà, tôi và Đường Triêu lặng lẽ trèo tường vào sân sau. Đi qua vườn hoa, chúng tôi đến được linh đường của Tần Tịnh một cách thuận lợi.
Ánh nắng mặt trời sáng chói chiếu qua cửa sổ vào bên trong song không mang lại được một chút hơi ấm nào. Trong không gian thỉnh thoảng lại vang lên tiếng lách tách của những ngọn nến đang cháy không ngừng múa may, khiến người ta giật mình run cầm cập. Chúng tôi lần tìm được nắp chiếc hòm, trên đó chỉ còn sót lại một nửa mảnh bùa cũ kỹ đã không còn phân biệt nổi màu gì. Các mép giấy quăn cả lại, tôi đưa tay ra định dỡ xuống thì bị Đường Triêu ngăn lại:
"Không được, lá bùa này lâu năm quá rồi, gỡ kiểu đó chắc chắn sẽ rách ngay".
Anh lấy từ trong túi ra một cuộn băng dính trong, cắt ra một mảnh lớn rồi dán lên trên tấm bùa, sau đó lại dùng con dao nhỏ cắt xung quanh, lá bùa bèn rời ra. Dù rằng cũng không thể không làm rách một chút nào, nhưng đại thể vẫn giữ được nguyên hình dáng cũ. Chúng tôi đẩy chiếc hòm trở về gầm bàn, sau đó lẳng lặng rời khỏi linh đường.
Khi chúng tôi lòng vòng tìm được tới nhà sư bá của Đường Triêu , bóng tối cũng đã buông xuống khắp nơi. Căn nhà của ông ta nằm trong một khu căn hộ kiểu cũ chưa bị dỡ bỏ đi, con đường chật hẹp, trước cửa treo lủng lẳng, phất phơ một cây rau, mảnh vỏ trái cây hay xác chuột chết. Một cơn gió thổi qua, khắp con ngõ nhỏ đậm đặc mùi xú uế. Tôi lấy tay bịt mũi, khó khăn lắm mới thở được bình thường. Ở đầu hẻm có vài ba đứa trẻ ở trần đang hò hét ồn ào, nói những từ phương ngữ mà chúng tôi nghe không hiểu. Thỉnh thoảng bọn chúng mới nói mấy câu tiếng phổ thông bằng thứ giọng quê không lẫn vào đâu được.
Số nhà đính trên các cánh cửa đã rơi mất cả nên chúng tôi rất khó tìm được địa chỉ mà sư phụ Đường Triêu ghi. Đường Triêu bèn gọi một đứa trẻ trong đám ra hỏi: "Anh bạn nhỏ, các cháu có biết ông họ Lâm ở nhà nào không?".
Một đứa có vẻ lớn tuổi lắc đầu: "Không biết, bọn cháu không biết nhà nào có người họ Lâm cả".
"Vậy số 78 là nhà nào?".
"Không biết...".
"Cháu biết đấy, chủ nhà cháu thuê ở trọ họ Lâm. Bọn cháu vẫn gọi là ông Lâm", một đứa nhỏ hơn tiếp lời, chỉ tay về phía trước:
"Kia, ở đằng kia kìa!".
Thằng bé nhảy chân sáo đưa chúng tôi đến đó, khi tới cửa, nó hét váng lên để gọi: "Ông Lâm ơi, có người đến tìm ông này. Ông Lâm ơi!". Giọng thằng bé rất to, ngay lập tức có tiếng vọng vang lên cuối ngõ.
Không có ai trong nhà trả lời, thằng bé liền quay đầu lại nói với chúng tôi:
"Cô chú cứ vào trong đó là được. Ông Lâm bị nặng tai đấy, nhưng mà hễ ai nói xấu thì ông ấy nghe được không sót một lời nào đâu".
Thằng bé vừa nói vừa thè lưỡi ra với chúng tôi, sau đó lặng lẽ đẩy cánh cửa, đặt một ngón tay lên môi: "Suỵt! Khe khẽ thôi, dì Lâm nghe thấy sẽ chửi cho đấy. Dì ấy ghê gớm lắm!".
Thằng bé nhón chân nhẹ nhàng đi đến bên cánh cửa lớn sơn đen, sau đó không đi vào trong nữa mà chỉ vào cánh cửa rồi hạ giọng thì thào: "Cô chú tự đi vào đó đi! Đừng có nói là cháu dẫn cô chú đến đây nhé".
Nói xong nó nhón chân chạy thẳng.
Chúng tôi gõ vào cánh cửa một lúc mới nghe thấy có tiếng bước chân. Cửa còn chưa mở ra đã nghe thấy một giọng nữ cao the thé cất lên: "Ai thế hả? Tối rồi còn có việc gì thế? Phiền chết đi được".
Lời chưa dứt cánh cửa đã mở ra, một người phụ nữ chừng bốn mươi tuổi mặc áo ngủ đầu tóc bù xù, tay phải liên tục túm lấy da đầu, đôi mắt híp nửa nhắm nửa mở, đuôi mắt còn cả đống nhử xuất hiện. Nhìn thấy chúng tôi, chị ta ngáp dài một cái rồi hỏi: "Có việc gì?".
"Chúng tôi đến tìm Lâm Minh Chí lão tiên sinh, xin hỏi ông ấy có nhà không?".
"Tìm bố tôi làm gì?", chị ta mở cửa ra, nghiêng người để tôi và Đường Triêu đi vào trong. Đường Triêu còn chưa trả lời, đã thấy một ông lão từ trong đi ra, tay cầm hai viên bi bạc xoay liên tục, nhìn tôi và Đường Triêu hỏi:
"Tìm ta có việc gì? Tiểu Châu, con đi rót trà đi".
"Lão bá, cháu là Đường Triêu, đồ đệ của sư phụ Ngô Viễn".
"Sao? Tìm ta có việc gì?", ông lão chau mày hỏi.
Đường Triêu đưa nửa lá bùa đã rách nát ra trước mặt ông lão. Ông ấy nhướng nhướng mày, cầm lên xem xết hồi lâu: "Cái này lấy ở nhà họ Hà đúng không? Lại có chuyện gì hay sao?".
Khi nghe xong chuyện chúng tôi kể lại, Lâm tiên sinh cúi đầu trầm mặc hồi lâu. Đợi tôi và Đường Triêu uống hết chén trà mà cô con gái mang lên, ông lão mới cất giọng lầm rầm:
"Tại sao lại không phong hẳn được? Đã qua bao nhiêu năm như vậy, lẽ ra oán khí phải hết rồi mới phải. Nhất định là đã có người dỡ ra".
Thấy Đường Triêu gật gật đầu, ông lão quay sang hỏi tôi: "Ông của cháu có còn sống không?".
"Cháu cũng không biết, mười năm trước ông cháu đã mất tích rồi, bặt vô âm tính".
"Điều này càng kỳ lạ. Các cháu hãy đến thư phòng của ta".
Chúng tôi đi theo sau đến thư phòng của Lâm tiên sinh. Bốn bên tường treo đầy những bức họa tự, còn có cả mấy thanh kiếm gỗ đào nữa. Căn phòng trống không, ngoài một chiếc bàn và một chiếc ghế ra thì không có quyển sách nào. Trên bàn đặt một lư hương, Lâm tiên sinh thắp một nén nhang rồi sau đó bảo tôi và Đường Triêu ngồi xuống chiếc ghế trước lư hương. Ông lão cũng ngồi trước mặt chúng tôi rồi lẩm nhẩm đọc những từ gì đó. Mùi đàn hương xộc mạnh vào mắt mũi, khói hương đậm đặc khiến tôi đành nhắm mắt lại, hít thở một cách thận trọng, ý thức dần trở nên mơ hồ...
Một vầng trăng non thấp thoáng trên tàng cây, con ngõ nhỏ vắng tanh lạnh giá. Đường Triêu dắt tay tôi, không biết đang trong tiết trời quái đản gì mà rõ ràng có trăng nhưng từ đầu ngõ đến cuối ngõ lại chìm trong sương mù dày đặc. Sương dày tới mức tôi không thể nhìn rõ mặt Đường Triêu, sương mang theo cả những giọt nước vụn nhỏ li ti chui vào trong cổ, để lại hơi lạnh trên mình. Tôi nắm chặt lấy tay Đường Triêu, mò mẫm đi về phía trước. Ở đây quen thuộc quá, mùi hương hoa thoang thoảng trong không khí, tôi hít một hơi, đúng rồi, đúng là mùi đinh hương.
Chúng tôi cứ đi như vô định về phía trước, đi mãi... Tiếng rột roạt chợt vang lên trong một mảnh sân ở đầu ngõ, nghe giống như tiếng xúc đất. Tôi và Đường Triêu nhìn nhau một cái, tôi đẩy cánh cửa ra, khi ấy ánh trăng chợt sáng bừng lên khiến cả khoảng sân sáng rõ như ban ngày. Ở góc sân là một bóng người già nua đang cúi gập lưng, vung tay nhấn xuống từng nhát xẻng, xúc từng xẻng đất lên một chậu hoa lớn. Cây đinh hương trong chậu đang tỏa hương thơm ngát, mùi hương nồng đậm xộc vào mũi, tôi không thể không hít thật sâu mấy hơi. Đột nhiên tôi phát hiện ra ở thành chậu có một đôi tay rũ rượi vắt lên trên đó, không còn sức sống.
Tôi bưng lấy miệng, nước mắt bỗng nhiên trào ra, khiến tầm nhìn trở nên mơ hồ, tôi kéo tay Đường Triêu chầm chậm đi về phía đó. Gần hơn, gần hơn tôi nhìn thấy một xẻng đất bùn đang che phủ lên khuôn mặt già nua. Hình ảnh cuối cùng thoáng qua mắt tôi là mụn ruồi màu đen ngay giữa chân mày. Tôi nức nở thành tiếng, cái người vẫn đứng sau lưng chúng tôi từ từ quay lại. Khoảng cách rất gần, gần tới mức chúng tôi có thể ngửi thấy mùi hương nhàn nhạt trên cơ thể bà, là mùi xạ hương, thân quen biết chừng nào...
Khuôn mặt xoay nghiêng của bà trông mờ ảo, dần dần quay lại phía chúng tôi, một cảm giác thân thuộc biết bao. Nỗi sợ hãi không biết từ đây đến ập lấy cơ thể, tôi có thể nghe thấy tiếng tim mình đập thình thịch, mỗi lúc một nhanh hơn, dường như bất cứ lúc nào cũng có thể bức khỏi lồng ngực mà nhảy ra ngoài vậy. Đúng lúc cả khuôn mặt người đó sắp lộ ra hoàn toàn, trái tim tôi không còn chịu được thêm tốc độ đập đó nữa, tôi kêu lên một tiếng đầy đau khổ, đầu choáng váng mê đi...
Khi tôi mở mắt ra, tim vẫn đang nhảy loạn lên, không sao kìm nén được tiếng thút thít trong cổ họng. Trên mặt tôi lạnh ngắt, Đường Triêu nhẹ nhàng lau vết nước mắt cho tôi, sau đó khẽ vỗ vào lưng tôi an ủi: "Tiểu Ảnh, đừng sợ!".
Chờ tới khi tôi bình tĩnh lại, Lâm tiên sinh mới hỏi: "Cháu đã trông thấy gì?".
"Khuôn mặt của ông nội cháu, ở trong chậu hoa đinh hương", tôi run rẩy nói, cơ thể vẫn run lên bần bật, không dám nghĩ đến hình ảnh đó nữa, song lại không thể không nghĩ đến nó, khẽ hỏi:
"Như vậy nghĩa là ông nội cháu đã chết rồi phải không? Những điều cháu nhìn thấy là thật phải không?".
"Nếu như cháu khẳng định người mà cháu vừa nhìn thấy là ông nội cháu, vậy thì quá nửa khả năng là ông ấy đã chết. Cháu còn nhìn thấy gì nữa?".
"Cháu còn nhìn thấy một lão phu nhân, bà ấy đang chôn cái xác. Khi bà ấy sắp sửa quay mặt lạ thì Tiểu Ảnh hét lên và tỉnh lại", Đường Triêu nói tiếp lời.
"Cháu đang cố gạt bỏ, không chấp nhận nhìn thấy sự thật, thực ra trong lòng cháu cũng ngấm ngầm biết những chuyện này rồi, thế nên tự ngăn mình không để nhìn thấy tiếp. Hiện giờ ta cũng không thể khẳng định điều cháu nhìn thấy có phải sự thực hay không".
Lâm tiên sinh nói, từng câu từng từ đều chạm vào nơi sâu thẳm nhất trong trái tim tôi. Tôi chợt thấy tai mình ù đi, không biết mình đang sợ hãi điều gì, song trái tim vẫn không ngừng run rẩy. Khoảnh khắc đó, tôi nhận ra mình đã không còn cần sự thật nữa, tôi hoảng hốt muốn tìm đường trốn tránh, có thể tránh càng xa càng tốt.
Tôi vùi đầu vào lòng Đường Triêu, thở ngắt quã một cách yếu ớt.
Lâm tiên sinh lấy từ trong ngăn kéo bàn ra một cuốn sách hơi cũ nát, hắng hắng giọng rồi nói:
"Giờ ta sẽ nói cho cháu tình cảnh nhà họ Hà khi ta đến đó".
Lần đầu tiên ta đến nhà họ Hà, đã thấy cái oán khí âm u đó bủa vây khắp chốn. Ta nhìn thấy người phụ nữ đó trong rừng trúc Tương Phi. Cô ấy ngồi đó với khuôn mặt khó đăm đăm, lặng yên không động đậy.
Ta tìm đến căn nguyên của mọi sự việc, đó là căn phòng nơi cô ấy ở. Căn phòng trông đơn giản đến mức lạ thường, chỉ khác ở chỗ là xường xám đủ mọi kiểu dáng được treo khắp mọi nơi. Ta đã nhìn thấy, nhìn thấy cả kiếp trước và kiếp này của cô ấy, cũng có thể nói rằng, cô ấy có quan hệ xâu xa đến tấm kỳ bào của anh ta. Hóa ra kiếp trước cô ấy đã nhảy xuống sông tự tận trong ngày cưới, bởi vậy cô ấy chính là cô dâu mà cháu đã nằm mơ thấy.
Ta muốn hủy hoại tất cả những chiếc xường xám đó và những vật dụng cá nhân của Tần Tịnh, nhưng rồi ta nhận ra vì oán khí còn quá nặng nên nếu tiêu hủy chỉ phản tác dụng. Thế nên ta mới thỉnh một là bùa, niêm phong chúng lại. Thực ra nếu như một ngày kia người mà cô ấy yêu thương cũng chết đi, hợp táng hoặc chôn cạnh nhau thì oán khí sẽ dần dần tiêu tán hết. Còn nữa, nếu như có thể tìm ra người cô ấy yêu là ai, giao lại những tấm xường xám đó cho anh ta thì oán khí cũng dần dần nhẹ bớt. Song lúc đó ta không thể nào tìm ra được người đó là ai, bởi vì nhà họ Hà không giữ lại bất cứ thứ gì có liên quan đến tung tích của anh ta. Hà phu nhân có nói rằng Hà lão gia biết chuyện, nhưng Hà lão gia cơ bản không tin vào những việc này, lần đầu tiên nhìn thấy ta còn lớn tiếng chửi mắng một hồi. Thế nên những lần sau đến nhà họ Hà ta đều phải lẳng lặng mà vào, sau đó rời đi trước khi Hà lão gia về. Vì không có ai cung cấp thông tin, nên chỉ có thể niêm phong những món đồ đó lại, Nhưng ta không ngờ đến việc có người dỡ niêm phong. Tần Tịnh bị nhốt trong đó suốt mấy chục năm, oán khí đương nhiên sẽ càng nặng hơn, thế nên những người gặp phải đều khó tránh được tai họa. Thêm vào đó, cô ấy không còn chọn các cô dâu nữa, lẽ nào còn có chuyện gì mà chúng ta chưa biết?
"Vậy thì bây giờ chúng ta phải làm gì?", Đường Triêu hỏi.
"Hoặc là tìm được ông nội của Lý Ảnh thì tốt, vì chỉ ông ấy mới có thể hóa giải tất cả. Hoặc là dùng bùa niêm phong lại một lần nữa, bởi vì tiêu hủy những thứ này không tốt lành một chút nào".
"Nhưng nếu như lại bị người ta dỡ niêm phong một lần nữa thì sao?".
"Thì tai họa sẽ còn lớn hơn".
...
Vì trời cũng đã khuya nên chúng tôi chào Lâm tiên sinh rồi ra về. Suốt dọc đường tôi không nói một lời, trong đầu chỉ lởn vởn những hình ảnh trong giấc mộng, những bông hoa đinh hương đang nở, dáng người quen thân đó. Từng cảnh, từng cảnh cứ không ngừng gõ vào não tôi, phát đau. Đau tới mức không thể nào nói được, đau đến nỗi không sao thở nổi, đau đến nỗi không dám nghĩ sâu thêm nữa...
Đêm hôm đó tôi ngủ rất ngon, có lẽ nguyên nhân là vì quá mệt, hưng cũng có lẽ là bởi trái tim bị giam cầm nhiều ngày qua trong thù hận đã được phóng thích. Ngày hôm sau khi tỉnh dậy đã đến giờ trưa. Tôi lười nhác ngồi tựa trên ghế mây phơi nắng, nếu như không phải là nhận được điện thoại của Đường Triêu thì chắc tôi sẽ cứ ngồi vậy cho tới khi màn đêm buông xuống.
Khi tôi đến cửa hàng của Đường Triêu, hai thầy trò bọn họ đang uống trà. Mặt sư phụ Đường Triêu đỏ bừng bừng, còn anh thì tỏ vẻ không mấy tự nhiên. Nhìn thấy tôi, sư phụ của anh dằn mạnh chén trà xuống chiếc bàn gốc cây, chiếc chén nhỏ xinh bằng sứ màu trắng xoay mấy vòng trên mặt bàn nhưng rồi cũng không lăn xuống đất, chỉ có nước trà trong chén chưa uống hết là bắn tóe ra xung quanh. Dưới đáy chiếc ấm trong suốt là những lá trà màu trắng bạc, trà đã nhạt màu như nước, trong không gian thoang thoảng mùi hương nhẹ như có như không. Tôi làm bộ không để ý đến sự giận dữ của ông ấy, ngồi xuống rồi thản nhiên rót cho mình một chén trà, khẽ đưa lên nhấp một ngụm rồi khen: "Bạch trà thơm quá".
Thấy ánh mắt Đường Triêu nhìn mình đầy vẻ day dứt, tôi mỉm cười với anh, tỏ ý rằng mình không quan tâm đến thái độ đó của sư phụ. Đường Triêu bèn kéo sư phụ ra bên ngoài, còn tôi vẫn ngồi yên bên trong vờ như nhàn nhã nhấm nháp chén trà. Tiếng cãi nhau của họ từ bên ngoài vọng vào.
"Sư phụ, sao sư phụ lại tỏ thái độ như vậy với Tiểu Ảnh? Cô ấy không làm gì sai cả".
"Lần đầu tiên nhìn thấy cô ta sư phụ đã có cảm giác muộn phiền bực bội trong lòng rồi, sao con lại đi lo mấy chuyện này kia chứ?".
"Sư phụ biết tính con rồi đấy, không làm thì thôi, nhưng nếu đã bắt đầu thì con sẽ làm đến cùng mới thôi. Nếu như sư phụ không muốn giúp con thì đành vậy, con nghĩ một mình con cũng sẽ làm rõ được".
"Không phải là ta không muốn giúp. Đường Triêu, ta không thể tìm ra manh mối nào, có biết vì sao hôm đó ta chỉ có thể giúp các con nhìn thấy Tần Tịnh và người đàn ông của cô ta không? Bởi vì những mối hận thù cũ đều đã bị người niêm phong những tấm kỳ bào đó đóng khóa lại rồi, nếu muốn mở thì chúng ta phải đi tìm người đã yểm bùa niêm phong ấy. Chỉ có ông ta mới có thể giúp chúng ta giải được những bí ẩn này".
"Cũng đã mấy chục năm rồi, chúng ta làm sao mà tìm được người ấy?".
"Là lá bùa đó!". Tôi đứng dậy đi ra cửa, nói tiếp lời Đường Triêu. Cuối cùng tôi đã biết sự thiếu kiên nhẫn của sư phụ Đường Triêu là vì cảm thấy mù mịt và bực bội, còn cả việc không đồng ý cho Đường Triêu dính dáng vào tôi nữa.
"Vậy thì chúng ta lại phải đến nhà họ Hà một lần nữa ư?".
Sư phụ của Đường Triêu gật đầu, nói tiếp với vẻ trầm ngâm :
"Thực ra người đã đặt bùa niêm phong rất có thể là sư huynh của ta, bởi vì khi đó chỉ ta và huynh ấy có chút tiếng tăm trong giới này. Ta sẽ cho con địa chỉ nhà huynh ấy, con và Lý Ảnh đến nhà họ Hà lấy lá bùa mang đến đó hỏi trực tiếp huynh ấy là được. Hiện giờ anh ấy đã lui về ở ẩn, không thích lo mấy chuyện này nữa, nếu đi người không chắc chắn huynh ấy sẽ không thừa nhận. Song huynh ấy là người rất có trách nhiệm, nên khi trông thấy lá bùa biết là việc mình đã làm trước đó, chắc chắn sẽ lo liệu tiếp".
Vì không muốn làm kinh động đến người nhà họ Hà, tôi và Đường Triêu lặng lẽ trèo tường vào sân sau. Đi qua vườn hoa, chúng tôi đến được linh đường của Tần Tịnh một cách thuận lợi.
Ánh nắng mặt trời sáng chói chiếu qua cửa sổ vào bên trong song không mang lại được một chút hơi ấm nào. Trong không gian thỉnh thoảng lại vang lên tiếng lách tách của những ngọn nến đang cháy không ngừng múa may, khiến người ta giật mình run cầm cập. Chúng tôi lần tìm được nắp chiếc hòm, trên đó chỉ còn sót lại một nửa mảnh bùa cũ kỹ đã không còn phân biệt nổi màu gì. Các mép giấy quăn cả lại, tôi đưa tay ra định dỡ xuống thì bị Đường Triêu ngăn lại:
"Không được, lá bùa này lâu năm quá rồi, gỡ kiểu đó chắc chắn sẽ rách ngay".
Anh lấy từ trong túi ra một cuộn băng dính trong, cắt ra một mảnh lớn rồi dán lên trên tấm bùa, sau đó lại dùng con dao nhỏ cắt xung quanh, lá bùa bèn rời ra. Dù rằng cũng không thể không làm rách một chút nào, nhưng đại thể vẫn giữ được nguyên hình dáng cũ. Chúng tôi đẩy chiếc hòm trở về gầm bàn, sau đó lẳng lặng rời khỏi linh đường.
Khi chúng tôi lòng vòng tìm được tới nhà sư bá của Đường Triêu , bóng tối cũng đã buông xuống khắp nơi. Căn nhà của ông ta nằm trong một khu căn hộ kiểu cũ chưa bị dỡ bỏ đi, con đường chật hẹp, trước cửa treo lủng lẳng, phất phơ một cây rau, mảnh vỏ trái cây hay xác chuột chết. Một cơn gió thổi qua, khắp con ngõ nhỏ đậm đặc mùi xú uế. Tôi lấy tay bịt mũi, khó khăn lắm mới thở được bình thường. Ở đầu hẻm có vài ba đứa trẻ ở trần đang hò hét ồn ào, nói những từ phương ngữ mà chúng tôi nghe không hiểu. Thỉnh thoảng bọn chúng mới nói mấy câu tiếng phổ thông bằng thứ giọng quê không lẫn vào đâu được.
Số nhà đính trên các cánh cửa đã rơi mất cả nên chúng tôi rất khó tìm được địa chỉ mà sư phụ Đường Triêu ghi. Đường Triêu bèn gọi một đứa trẻ trong đám ra hỏi: "Anh bạn nhỏ, các cháu có biết ông họ Lâm ở nhà nào không?".
Một đứa có vẻ lớn tuổi lắc đầu: "Không biết, bọn cháu không biết nhà nào có người họ Lâm cả".
"Vậy số 78 là nhà nào?".
"Không biết...".
"Cháu biết đấy, chủ nhà cháu thuê ở trọ họ Lâm. Bọn cháu vẫn gọi là ông Lâm", một đứa nhỏ hơn tiếp lời, chỉ tay về phía trước:
"Kia, ở đằng kia kìa!".
Thằng bé nhảy chân sáo đưa chúng tôi đến đó, khi tới cửa, nó hét váng lên để gọi: "Ông Lâm ơi, có người đến tìm ông này. Ông Lâm ơi!". Giọng thằng bé rất to, ngay lập tức có tiếng vọng vang lên cuối ngõ.
Không có ai trong nhà trả lời, thằng bé liền quay đầu lại nói với chúng tôi:
"Cô chú cứ vào trong đó là được. Ông Lâm bị nặng tai đấy, nhưng mà hễ ai nói xấu thì ông ấy nghe được không sót một lời nào đâu".
Thằng bé vừa nói vừa thè lưỡi ra với chúng tôi, sau đó lặng lẽ đẩy cánh cửa, đặt một ngón tay lên môi: "Suỵt! Khe khẽ thôi, dì Lâm nghe thấy sẽ chửi cho đấy. Dì ấy ghê gớm lắm!".
Thằng bé nhón chân nhẹ nhàng đi đến bên cánh cửa lớn sơn đen, sau đó không đi vào trong nữa mà chỉ vào cánh cửa rồi hạ giọng thì thào: "Cô chú tự đi vào đó đi! Đừng có nói là cháu dẫn cô chú đến đây nhé".
Nói xong nó nhón chân chạy thẳng.
Chúng tôi gõ vào cánh cửa một lúc mới nghe thấy có tiếng bước chân. Cửa còn chưa mở ra đã nghe thấy một giọng nữ cao the thé cất lên: "Ai thế hả? Tối rồi còn có việc gì thế? Phiền chết đi được".
Lời chưa dứt cánh cửa đã mở ra, một người phụ nữ chừng bốn mươi tuổi mặc áo ngủ đầu tóc bù xù, tay phải liên tục túm lấy da đầu, đôi mắt híp nửa nhắm nửa mở, đuôi mắt còn cả đống nhử xuất hiện. Nhìn thấy chúng tôi, chị ta ngáp dài một cái rồi hỏi: "Có việc gì?".
"Chúng tôi đến tìm Lâm Minh Chí lão tiên sinh, xin hỏi ông ấy có nhà không?".
"Tìm bố tôi làm gì?", chị ta mở cửa ra, nghiêng người để tôi và Đường Triêu đi vào trong. Đường Triêu còn chưa trả lời, đã thấy một ông lão từ trong đi ra, tay cầm hai viên bi bạc xoay liên tục, nhìn tôi và Đường Triêu hỏi:
"Tìm ta có việc gì? Tiểu Châu, con đi rót trà đi".
"Lão bá, cháu là Đường Triêu, đồ đệ của sư phụ Ngô Viễn".
"Sao? Tìm ta có việc gì?", ông lão chau mày hỏi.
Đường Triêu đưa nửa lá bùa đã rách nát ra trước mặt ông lão. Ông ấy nhướng nhướng mày, cầm lên xem xết hồi lâu: "Cái này lấy ở nhà họ Hà đúng không? Lại có chuyện gì hay sao?".
Khi nghe xong chuyện chúng tôi kể lại, Lâm tiên sinh cúi đầu trầm mặc hồi lâu. Đợi tôi và Đường Triêu uống hết chén trà mà cô con gái mang lên, ông lão mới cất giọng lầm rầm:
"Tại sao lại không phong hẳn được? Đã qua bao nhiêu năm như vậy, lẽ ra oán khí phải hết rồi mới phải. Nhất định là đã có người dỡ ra".
Thấy Đường Triêu gật gật đầu, ông lão quay sang hỏi tôi: "Ông của cháu có còn sống không?".
"Cháu cũng không biết, mười năm trước ông cháu đã mất tích rồi, bặt vô âm tính".
"Điều này càng kỳ lạ. Các cháu hãy đến thư phòng của ta".
Chúng tôi đi theo sau đến thư phòng của Lâm tiên sinh. Bốn bên tường treo đầy những bức họa tự, còn có cả mấy thanh kiếm gỗ đào nữa. Căn phòng trống không, ngoài một chiếc bàn và một chiếc ghế ra thì không có quyển sách nào. Trên bàn đặt một lư hương, Lâm tiên sinh thắp một nén nhang rồi sau đó bảo tôi và Đường Triêu ngồi xuống chiếc ghế trước lư hương. Ông lão cũng ngồi trước mặt chúng tôi rồi lẩm nhẩm đọc những từ gì đó. Mùi đàn hương xộc mạnh vào mắt mũi, khói hương đậm đặc khiến tôi đành nhắm mắt lại, hít thở một cách thận trọng, ý thức dần trở nên mơ hồ...
Một vầng trăng non thấp thoáng trên tàng cây, con ngõ nhỏ vắng tanh lạnh giá. Đường Triêu dắt tay tôi, không biết đang trong tiết trời quái đản gì mà rõ ràng có trăng nhưng từ đầu ngõ đến cuối ngõ lại chìm trong sương mù dày đặc. Sương dày tới mức tôi không thể nhìn rõ mặt Đường Triêu, sương mang theo cả những giọt nước vụn nhỏ li ti chui vào trong cổ, để lại hơi lạnh trên mình. Tôi nắm chặt lấy tay Đường Triêu, mò mẫm đi về phía trước. Ở đây quen thuộc quá, mùi hương hoa thoang thoảng trong không khí, tôi hít một hơi, đúng rồi, đúng là mùi đinh hương.
Chúng tôi cứ đi như vô định về phía trước, đi mãi... Tiếng rột roạt chợt vang lên trong một mảnh sân ở đầu ngõ, nghe giống như tiếng xúc đất. Tôi và Đường Triêu nhìn nhau một cái, tôi đẩy cánh cửa ra, khi ấy ánh trăng chợt sáng bừng lên khiến cả khoảng sân sáng rõ như ban ngày. Ở góc sân là một bóng người già nua đang cúi gập lưng, vung tay nhấn xuống từng nhát xẻng, xúc từng xẻng đất lên một chậu hoa lớn. Cây đinh hương trong chậu đang tỏa hương thơm ngát, mùi hương nồng đậm xộc vào mũi, tôi không thể không hít thật sâu mấy hơi. Đột nhiên tôi phát hiện ra ở thành chậu có một đôi tay rũ rượi vắt lên trên đó, không còn sức sống.
Tôi bưng lấy miệng, nước mắt bỗng nhiên trào ra, khiến tầm nhìn trở nên mơ hồ, tôi kéo tay Đường Triêu chầm chậm đi về phía đó. Gần hơn, gần hơn tôi nhìn thấy một xẻng đất bùn đang che phủ lên khuôn mặt già nua. Hình ảnh cuối cùng thoáng qua mắt tôi là mụn ruồi màu đen ngay giữa chân mày. Tôi nức nở thành tiếng, cái người vẫn đứng sau lưng chúng tôi từ từ quay lại. Khoảng cách rất gần, gần tới mức chúng tôi có thể ngửi thấy mùi hương nhàn nhạt trên cơ thể bà, là mùi xạ hương, thân quen biết chừng nào...
Khuôn mặt xoay nghiêng của bà trông mờ ảo, dần dần quay lại phía chúng tôi, một cảm giác thân thuộc biết bao. Nỗi sợ hãi không biết từ đây đến ập lấy cơ thể, tôi có thể nghe thấy tiếng tim mình đập thình thịch, mỗi lúc một nhanh hơn, dường như bất cứ lúc nào cũng có thể bức khỏi lồng ngực mà nhảy ra ngoài vậy. Đúng lúc cả khuôn mặt người đó sắp lộ ra hoàn toàn, trái tim tôi không còn chịu được thêm tốc độ đập đó nữa, tôi kêu lên một tiếng đầy đau khổ, đầu choáng váng mê đi...
Khi tôi mở mắt ra, tim vẫn đang nhảy loạn lên, không sao kìm nén được tiếng thút thít trong cổ họng. Trên mặt tôi lạnh ngắt, Đường Triêu nhẹ nhàng lau vết nước mắt cho tôi, sau đó khẽ vỗ vào lưng tôi an ủi: "Tiểu Ảnh, đừng sợ!".
Chờ tới khi tôi bình tĩnh lại, Lâm tiên sinh mới hỏi: "Cháu đã trông thấy gì?".
"Khuôn mặt của ông nội cháu, ở trong chậu hoa đinh hương", tôi run rẩy nói, cơ thể vẫn run lên bần bật, không dám nghĩ đến hình ảnh đó nữa, song lại không thể không nghĩ đến nó, khẽ hỏi:
"Như vậy nghĩa là ông nội cháu đã chết rồi phải không? Những điều cháu nhìn thấy là thật phải không?".
"Nếu như cháu khẳng định người mà cháu vừa nhìn thấy là ông nội cháu, vậy thì quá nửa khả năng là ông ấy đã chết. Cháu còn nhìn thấy gì nữa?".
"Cháu còn nhìn thấy một lão phu nhân, bà ấy đang chôn cái xác. Khi bà ấy sắp sửa quay mặt lạ thì Tiểu Ảnh hét lên và tỉnh lại", Đường Triêu nói tiếp lời.
"Cháu đang cố gạt bỏ, không chấp nhận nhìn thấy sự thật, thực ra trong lòng cháu cũng ngấm ngầm biết những chuyện này rồi, thế nên tự ngăn mình không để nhìn thấy tiếp. Hiện giờ ta cũng không thể khẳng định điều cháu nhìn thấy có phải sự thực hay không".
Lâm tiên sinh nói, từng câu từng từ đều chạm vào nơi sâu thẳm nhất trong trái tim tôi. Tôi chợt thấy tai mình ù đi, không biết mình đang sợ hãi điều gì, song trái tim vẫn không ngừng run rẩy. Khoảnh khắc đó, tôi nhận ra mình đã không còn cần sự thật nữa, tôi hoảng hốt muốn tìm đường trốn tránh, có thể tránh càng xa càng tốt.
Tôi vùi đầu vào lòng Đường Triêu, thở ngắt quã một cách yếu ớt.
Lâm tiên sinh lấy từ trong ngăn kéo bàn ra một cuốn sách hơi cũ nát, hắng hắng giọng rồi nói:
"Giờ ta sẽ nói cho cháu tình cảnh nhà họ Hà khi ta đến đó".
Lần đầu tiên ta đến nhà họ Hà, đã thấy cái oán khí âm u đó bủa vây khắp chốn. Ta nhìn thấy người phụ nữ đó trong rừng trúc Tương Phi. Cô ấy ngồi đó với khuôn mặt khó đăm đăm, lặng yên không động đậy.
Ta tìm đến căn nguyên của mọi sự việc, đó là căn phòng nơi cô ấy ở. Căn phòng trông đơn giản đến mức lạ thường, chỉ khác ở chỗ là xường xám đủ mọi kiểu dáng được treo khắp mọi nơi. Ta đã nhìn thấy, nhìn thấy cả kiếp trước và kiếp này của cô ấy, cũng có thể nói rằng, cô ấy có quan hệ xâu xa đến tấm kỳ bào của anh ta. Hóa ra kiếp trước cô ấy đã nhảy xuống sông tự tận trong ngày cưới, bởi vậy cô ấy chính là cô dâu mà cháu đã nằm mơ thấy.
Ta muốn hủy hoại tất cả những chiếc xường xám đó và những vật dụng cá nhân của Tần Tịnh, nhưng rồi ta nhận ra vì oán khí còn quá nặng nên nếu tiêu hủy chỉ phản tác dụng. Thế nên ta mới thỉnh một là bùa, niêm phong chúng lại. Thực ra nếu như một ngày kia người mà cô ấy yêu thương cũng chết đi, hợp táng hoặc chôn cạnh nhau thì oán khí sẽ dần dần tiêu tán hết. Còn nữa, nếu như có thể tìm ra người cô ấy yêu là ai, giao lại những tấm xường xám đó cho anh ta thì oán khí cũng dần dần nhẹ bớt. Song lúc đó ta không thể nào tìm ra được người đó là ai, bởi vì nhà họ Hà không giữ lại bất cứ thứ gì có liên quan đến tung tích của anh ta. Hà phu nhân có nói rằng Hà lão gia biết chuyện, nhưng Hà lão gia cơ bản không tin vào những việc này, lần đầu tiên nhìn thấy ta còn lớn tiếng chửi mắng một hồi. Thế nên những lần sau đến nhà họ Hà ta đều phải lẳng lặng mà vào, sau đó rời đi trước khi Hà lão gia về. Vì không có ai cung cấp thông tin, nên chỉ có thể niêm phong những món đồ đó lại, Nhưng ta không ngờ đến việc có người dỡ niêm phong. Tần Tịnh bị nhốt trong đó suốt mấy chục năm, oán khí đương nhiên sẽ càng nặng hơn, thế nên những người gặp phải đều khó tránh được tai họa. Thêm vào đó, cô ấy không còn chọn các cô dâu nữa, lẽ nào còn có chuyện gì mà chúng ta chưa biết?
"Vậy thì bây giờ chúng ta phải làm gì?", Đường Triêu hỏi.
"Hoặc là tìm được ông nội của Lý Ảnh thì tốt, vì chỉ ông ấy mới có thể hóa giải tất cả. Hoặc là dùng bùa niêm phong lại một lần nữa, bởi vì tiêu hủy những thứ này không tốt lành một chút nào".
"Nhưng nếu như lại bị người ta dỡ niêm phong một lần nữa thì sao?".
"Thì tai họa sẽ còn lớn hơn".
...
Vì trời cũng đã khuya nên chúng tôi chào Lâm tiên sinh rồi ra về. Suốt dọc đường tôi không nói một lời, trong đầu chỉ lởn vởn những hình ảnh trong giấc mộng, những bông hoa đinh hương đang nở, dáng người quen thân đó. Từng cảnh, từng cảnh cứ không ngừng gõ vào não tôi, phát đau. Đau tới mức không thể nào nói được, đau đến nỗi không sao thở nổi, đau đến nỗi không dám nghĩ sâu thêm nữa...
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook