Cái Xiềng Của Tostearad
C64: Phần 4 - Chương 6




Khi Arol nói bất cứ ai phải ăn tối cùng gia đình, anh không ám chỉ bữa tối trong một căn lều vải vàng có lũ trẻ chạy quanh đĩa thức ăn, mà là tất cả người Moloch. Bao gồm cả những chiến binh đóng quân ở khu bên ngoài. Họ đã có liên minh các bộ tộc bản địa và luôn sẵn sàng bắt đầu cuộc chiến giành đại mạc. Người Moloch đốt đống lửa rất lớn ở bãi đất giữa làng. Phụ nữ và đàn ông nắm tay nhau giậm nhảy theo điệu nhạc. Đàn ông vẫn mặc áo choàng vàng và đeo gươm bên hông. Phụ nữ mặc trang phục là một tấm vải sặc sỡ màu sắc quấn quanh người và có hai đai cố định vòng qua vai. Chúng có họa tiết hình tam giác nhọn giống gai của loài thằn lằn sừng. Nụ cười của họ rực rỡ. Giọng hát của họ vang dội và hay như tiếng sự sống đầu tiên rùng mình dưới ánh sáng mặt trăng. Người Moloch đã luôn là vũ công, họ biết cách tạo ra âm nhạc từ hai bàn tay. Họ vỗ mặt trống Riq(1), gõ đốc dao lên bình gốm, rung lục lạc xâu từ nhiều đồng xu sắt. Tất cả dành cho cô gái được tiên tri Laahad Tostearad.

Laahad có bàn tay trái nắm tay con gái nhỏ nhất của Arol và bàn tay phải nắm tay vợ anh. Sau hơn một tháng hành trình hoang mạc, cô trông giống thực sự ở nhà. Con gái Arol có mắt hai màu xám và nâu vì mẹ nó là dân lai Ba Tư - Otman. Gia đình nhỏ đã từng định cư ở thánh địa Athrayir(2). Arol đã quen biết hai anh em Tostearad, khi thương đoàn của ngài Abqatharmunru từ thành Athrayir ngược lên phía Bắc sa mạc Akhmakar để tìm mua trầm hương quý. Nhưng rồi anh em bản địa biến mất, không còn trầm hương Comrha(3), cuộc sống của họ ở thánh địa Athrayir bị những tay Otman chạy nạn làm cho cay nghiệt. Arol nhớ lời hứa với người cha đã từng từ bỏ Moloch rằng ông nợ bộ tộc một chiến binh. Ông muốn cậu con trai lớn nhất đáp lại lời kêu gọi của những người anh em. Anh thuyết phục vợ bằng tình yêu của họ, như cách tình yêu của người mẹ nô lệ giữ chân cha ở thành xám, trở về với bộ tộc bản địa khăn rằn đỏ.




Arol nói rằng khi trở lại bộ tộc, một người tên Aram Bararad(4) đã nổi tiếng ở Najzakhs. Anh ta đi nhiều nơi khắp hoang mạc, chữa bệnh cho người ốm và trả lại người bản địa nhiều món quà phi thường. Anh đem về mùa màng bội thu ở bốn bộ tộc lớn. Anh phổ biến loại hạt lúa gọi là Enkorn(5), có hạt cứng như lúa Oryza(6) luôn được trồng ở Najzakhs, nhưng cho nhiều hạt hơn. Anh gieo chúng trên những khoảng đất giữa ranh giới khối Maahir(7). Chúng chỉ mất 3 tháng mùa mưa và thêm 1 tháng để kết bông nặng trĩu. Chúng đã sống được trên đất cằn với ít nước hơn giống lúa thông thường.

"Chúng tôi muốn gọi ngài ấy bằng tên trang trọng, nhưng ngài Aram chỉ khiêm tốn nói hãy cứ gọi ngài bằng cái tên cũ. Chúng tôi coi ngài như một dấu hiệu của thần Karamr." Một người phụ nữ nói.

"Các vị đã cho chúng ta nước và thức ăn, cả chỗ ngủ. Ta rất biết ơn. Ta đã luôn muốn được thử món thức uống Halidia(8) nổi tiếng của Najzakhs. Nó đâu rồi?! Cả lá Khát nữa?! Ta đã đi cả quãng đường dài chỉ vì nó. Một ngươi mù thì cần gì hơn thế chứ?!"

"Thưa ngài Shouduhud, chúng tôi xin lỗi vì đã đón tiếp ngài chưa chu đáo. Mọi chiến binh Moloch buộc phải cai gai dầu. Chúng tôi cần thêm người tuần tra để đợi cô gái được tiên tri xuất hiện. Ngài biết đấy, không ai biết chính xác khi nào cô ấy đến, hoặc khi nào lũ Otman đến làm phiền. Chúng tôi không muốn bỏ lỡ cô ấy và cả lũ Otman"

"Hẳn rồi, anh bạn. Anh nên chọn người để thương lượng. Anh giấu gai dầu của anh ở đâu? Ta biết nhiều người không thể bỏ được nó. Nó giống một cô gái quá quyến rũ."





Từ lúc bữa tiệc bắt đầu, gã bịp mù cũng bắt đầu đòi hỏi mọi thứ. Mặt chiến binh Moloch đỏ rực vì hổ thẹn. Nó không hợp với đôi mắt quắc và hàm râu rậm. Shouduhud trông hài lòng. Nhưng rồi cái mũi khoằm khịt lớn vì giận dữ, đủ lớn để nhiều người tò mò quay đầu. Gã trông như thể vừa uống phải mật thằn lằn gai. Ai đó chơi khăm gã bịp uống quá nhiều nước. Gã giống con lạc đà sắp chết khát, dù không có bướu trên lưng, như thể việc uống bù nước trong chuyến đi sẽ giúp gã không phải uống lần sau. Chúng chỉ khiến cơ thể mềm yếu trước chuyến đi tiếp theo ra hoang mạc. Chiến binh Moloch trừng mắt với lũ trẻ con đang nhại lại động tác khịt mũi sau lưng gã mù.

Nhóm lính đánh thuê da đen nói chúng là đoàn bảo vệ nhóm lữ hành. Chúng đã bỏ quần áo bẩn và mặc vào đồ của người Moloch. Chúng vẫn giắt dao găm ở thắt lưng, luôn ở đủ gần và nhìn chằm chằm vào những người chúng giám sát bằng cặp mắt trắng dã.

Lũ trẻ nhanh chóng thích Demonio. Chúng nói mắt anh giống hệt đôi mắt vừa phun máu của một con thằn lằn gai. Bọn trẻ đủ màu mắt bao vây anh ta, giống như lũ quỷ trong câu chuyện ngàn đêm đang có buổi tiệc nhỏ riêng. Demonio đã diễn trò tung hứng cốc gốm và giữ thăng bằng ba thanh gươm xếp chồng. Anh tự giành lấy một vị trí trong ngôi làng bản địa bằng chính sức mình. Dù người ta không hiểu anh nói gì, họ vẫn háo hức xem anh ta biểu diễn.

Rikamathraa thích ngồi yên ăn cơm hơn nắm tay nhảy tập thể. Và Iruk Albar ngồi bên cạnh thích được nghe nhóm phụ nữ kể về đĩa cơm rang đầy bất thường trong hơn một năm. Đó là món quà Aram Bararad nói vốn nên thuộc về người Arabiapan. Nhóm phụ nữ nói khàn và nhanh, Iruk luôn cố lịch sự chuyển hướng cách nấu những đĩa cơm cay trở về những bao thóc được người già cất kỹ chờ vụ gieo trồng.

Cô gái Ai Cập đã không còn mặc đồ vải lanh như lúc ở nhà của Nhà thông thái dãy Hemfiq. Trong trang phục người Moloch, cô vẫn giống một con dao Tut(9) trong vỏ. Cô gái thuật sĩ Otman luôn khoác áo choàng lữ hành, đó là thói quen từ lúc ở học viện. Cô ấy không còn phù phép vì tất cả túi và lọ tạo ra chúng đều đã bị tước đoạt ở lâu đài Ihsin Ebu. Iruk nói việc tiếc nuối quá khứ chỉ khiến cô giống một con cá heo cố vùng vẫy ở vùng nước cạn.





Gò cát cao nhất sân làng Moloch, vị trí tộc trưởng phiến quân khăn rằn đỏ, thuộc về một người đàn bà già. Vì những người đàn ông bản địa phải trở thành chiến binh, phải đi trên lưỡi đao của thần lửa Abn(10) và luôn có thể bị cuốn xuống lòng đại mạc. Bộ tộc phải có người đứng đầu quản lý cuộc sống về lâu dài. Quyền lực tộc trưởng thường trao cho người đàn bà nhiều kinh nghiệm nhất hoặc người đàn ông lớn tuổi nhất còn sống sau nhiều trận chiến. Người bản địa coi trọng cả nam giới và nữ giới, khác việc chỉ trao quyền lực cho nam giới ở người Otman.

Tộc trưởng Moloch rất già cỗi, tóc trắng, da màu nâu sậm và da mặt chảy xệ óp vào bộ khung hàm ọp ẹp. Bà có một vệt màu đỏ sậm chéo qua đuôi mắt trái, đầu bịt khăn rằn đỏ và mặc tấm vải được thêu nhiều hoa văn nhất. Người ta ngồi quanh bà theo thứ tự từ già đến trẻ. Sau điệu nhảy ăn mừng là nghi lễ truyền thống tôn vinh tổ tiên. Laahad đứng đối diện người đàn bà già, hai ngón tay phải đặt lên trên đuôi mắt phải, cúi chào thật thấp. Bắt đầu từ người già nhất đến các chức sắc lần lượt chào đáp lại, họ thể hiện sự tôn trọng cao bất thường dành cho cô gái nhỏ.

Sau khi nghi lễ ra mắt kết thúc, cô gái nhỏ được ngồi cạnh tộc trưởng. Những người đồng hành trong đoàn được ngồi gần các chức sắc lớn tuổi. Khi nhóm lính Moloch rúc từng hồi tù và để báo hiệu một điều quan trọng, một người đàn ông già trong nhóm chức sắc đứng dậy. Người ta trở nên trang nghiêm hơn trong từng hồi tù và trầm đục vang vọng trong đêm. Họ đều chờ thời khắc mà từng lời phải được khắc lên cát đại mạc.


"Hỡi những người con của đại mạc, cây không mọc lên chỉ từ cát, cây cần nước. Chúng ta có truyền thuyết về thần gió Đại dương Janulg đem mưa đến vùng cát này vào mỗi năm. Chúng ta có những vị thần quyền năng và cả những con quỷ lang thang luôn rình rập người du mục bên ngoài cồn cát. Chúng ta có cát màu đỏ, vàng, vàng sậm. Chúng ta có những khối núi hùng vĩ có nhiều cây trầm hương và cả những ốc đảo có hàng ngàn cây chà là xanh tốt. Tất cả những cái cây, khối núi, ốc đảo đều nằm trên cát của Arabiapan. Tất cả đều được thần tự nhiên Karamr ban tặng cho những người con của ngài, người Arabiapan. Tất cả tài sản của chúng ta giờ ở đâu?!

Chúng nằm trong tay người Otman! Quân kẻ cướp Otman lấy của chúng ta! Chúng ta luôn trao đổi những gì chúng ta có và trả lại đại mạc những gì chúng ta nhận của Ngài. Còn những kẻ xâm lược vơ vét tất cả để giấu vào bên trong những bức tường chật chội của chúng. Chúng lấy của ta những người đàn ông khỏe mạnh, để họ đục khoét những khối núi Ar Taijiyad. Chúng lấy của ta những người phụ nữ khỏe mạnh, nhốt thân thể và linh hồn họ vào trong bộ quần áo màu xám và giấu họ khỏi mặt trời. Những người Arabiapan đổi sức lao động và người Otman trả lại những vết roi. Chúng dựng lâu đài từ đá của rặng núi Hemfiq, ăn chà là của những ốc đảo Bashibaq và tiêu vàng của khối núi Ar Taijiyad. Chúng lấy của cải từ trong lòng Arabiapan và đẩy những người con của Arabiapan ra bên ngoài hoang mạc khô cằn nhất khai thác đất sét, lợp những mái nhà màu xanh che chúng khỏi đôi mắt của thần Karamr.

Những người Arabiapan tốt bụng chào bằng hai bàn tay và người Otman chào lại bằng những mũi gươm. Chúng trả cho ta những vết roi đuôi bò, chúng ta phải trả lại cho chúng những nhát gươm mạnh mẽ nhất!

Ranh giới ngoài kia được dựng nên từ tất cả tài sản của đại mạc. Nó không phải để chia cắt vùng cát của tổ tiên. Nó là sự phán quyết đầu tiên, dấu hiệu của thần tự nhiên Karamr. Hỡi những người con của Moloch, những đứa con của chủng tộc Arabiapan. Dấu hiệu thứ 3 và cũng là tiếng tù và quan trọng nhất báo hiệu sự trỗi dậy của người Arabiapan đã vang lên. Cô gái trong lời tiên tri đã đến với Najzakhs. Cô và những người đồng hành đang ngồi giữa những chiến binh Moloch. Cô đã thắt chặt dấu hiệu đoàn kết của liên minh Najzakhs. Những vị thần đang đứng về phía những người dũng cảm. Chúng ta sẽ là những kẻ đầu tiên đưa cô gái trong lời tiên tri đến với khối Maahir(4). Và khi đó đội quân Najzakhs sẽ khiến những gã Samum(11) phải trả giá đắt!

Chúng ta sẽ giành lại những ốc đảo Bashibaq!

Chúng ta sẽ giành lại khối núi Ar Taijiyad!

Chúng ta sẽ giành lại cát Arabiapan!

Chúng ta giành lại những gì thuộc về chúng ta!

Trả lại tài sản cho thần Karamr vĩ đại. Trả lại tài sản cho những người con dũng cảm. Trả lại đại mạc cho khối người Arabiapan thống nhất!"

Dòng cát chảy từ nắm tay của người đàn ông già như thời gian chảy theo lịch sử của những người du mục. Trong cát có máu, có những cuộc chiến và có cả những bài thơ không lời khắc trong tiếng sáo xương ống(11). Trong cát có những điệu nhảy quanh đống lửa lớn và cả ánh sáng mặt trăng giữa đêm đại mạc. Trong tiếng bước chân và tiếng vó ngựa, những thủ lĩnh phiến quân đầu tiên dốc một nắm cát bỏ vào miệng. Họ đều nói nó có vị của những người đã hi sinh và sẵn sàng hi sinh vì tự do.


"AKLAYIMAAN!"

Aklayimaan có nghĩa là những vị thần luôn theo dõi. Tiếng hô đồng loạt của hàng trăm người giống như tiếng một cơn bão cát. Đó là quyết tâm của người bản địa muốn một câu trả lời từ kẻ xâm lược.




Buổi lễ vẫn chưa kết thúc sau tuyên bố của chức sắc đại diện. Những người Moloch đều mong đợi điều gì đó từ nhóm bạn hữu của cô gái được tiên tri. Mỗi người đồng hành đều có mong muốn riêng, họ để Demonio diễn trò thu hút đám người tò mò. Các trưởng lão bản địa dành thời gian cho cô gái nhỏ. Rikamathraa theo sát Laahad mọi lúc có thể. Shouduhud đề nghị trò tung hứng dao và biến Demonio thành bia ném. Iruk Albar trầm lặng, cô ấy không tìm thấy nhiều câu trả lời tốt lành trong đêm nay.

---

Chú giải:

1. Riq: Riq là một loại trống nhỏ cầm tay phổ biến ở khu vực Trung Đông. Một Riq có mặt bằng da dê non và khung bằng gỗ, xung quanh khung có năm cặp chũm chọe sắt có kích thước lớn hơn đồng xu, tạo ra âm thanh leng keng theo nhịp điệu. (Xem thêm Phần 2 Chương 4.)

2. Thánh địa Athrayir (Atharayir nghĩa là Vùng trũng): Athrayir là tên một thành bang lớn được mệnh danh là thánh địa của người lữ hành ở Arabiapan. Athrayir có phía Bắc tiếp giáp sa mạc cát đỏ Akhmakar, phía Tây là chuỗi các ốc đảo Bashibaq, phía Nam là hoang mạc ăn cướp Lihal. Thành Athrayir nổi tiếng với đa dạng loại hình kiến trúc nhà ở, hoạt động buôn bán và dịch vụ ven hồ nước mặn Giaya. Việc nằm ở cách xa thành đô Gumaunten hàng trăm dặm khiến ảnh hưởng của hoàng gia và chính thống giáo (Tri giáo) tại Athrayir không hà khắc. (Xem thêm Phần 2)

3. Trầm hương Comrha (Commiphora myrrha): Cây một dược. Đây là loài cây thân gỗ, cành mọc đầy gai và lá nhỏ, thường thấy ở khu vực Ả Rập và Châu Phi. Nhựa loài cây này có nhiều tác dụng y học như kháng khuẩn, chống sâu bệnh, chữa ho và phát ban. Nhựa dùng được với cả hình thức đốt cháy lấy khói hoặc đun lấy nước uống. Nó mọc tốt nhất ở khu vực có đá vôi.

4. Trầm hương Comrha mọc ở rặng núi đá vôi phía Đông Bắc sa mạc đỏ Akhmakar cho chất lượng cao hơn hẳn trầm hương cùng loại mọc ở bất kỳ nơi nào khắp Arabiapan.

(Xem thêm Phần 1 - Chương 1)


5. Aram Bararad (Từ ana badaw nghĩa là Tôi là một người du mục.): Aram Bararad là một cái tên khác của Hira Tostearad. Aram được tôn trọng ở Najzakhs. Người được biết đến từ những câu chuyện về những phép màu phi thường, nổi tiếng nhất là chuyện phù phép khiến mùa màng bội thu ở vùng cát khô cằn.

(Xem thêm Phần 3 Chương 9)




6. Lúa Enkorn: Enjkorn là một loại lúa mì chịu hạn, có sức chống chịu tốt trước các loại bệnh trên lúa mì. Cây lúa mì trưởng thành có độ cao khoảng 1.5m. Loài cây này có nguồn gốc ở khu vực "Lưỡi liềm màu mỡ" Trung đông, lịch sử khoảng thiên niên kỷ thứ 4 TCN và hiện vẫn còn được tìm thấy trên các vùng núi đá khô. Hạt lúa Enkorn rất cứng, vị béo và thơm, có thể được nghiền thành bột để làm bánh mì, súp hoặc cháo. (Lúa mì Enkorn về sau bị lúa mì Emmer thay thế)

(Tham khảo tại: https://da.wikipedia.org/wiki/Enkorn và https://.norskurkorn.no/produkter/emmer/enkorn/)

7. Maahir (Từ Muzdahir/Hanei nghĩa là Sự thịnh vượng): Maahir nói đến khối 4 bộ tộc giàu có nhất Najzakhs, gồm bộ tộc chim ưng lớn Alarim ở phía Tây Bắc, rắn lớn Araate ở phía Đông Bắc, cá lớn Aeralg ở phía Tây và bộ tộc khỉ lớn Hamad ở phía Nam. Khoảng đất giữa ranh giới khối Maahir nói đến vùng đất ven rìa ngôi làng của các bộ tộc lớn, hướng về trung tâm hoang mạc Najzakhs.

8. Halidia (Từ Halib nghĩa là sữa và gai dầu Ấn Độ Cannabis indica): Một loại thức uống làm từ sữa lên men trộn với một lượng nhỏ chồi hoặc lá gai dầu bóp vụn. Những cây gai dầu được trồng với số lượng nhỏ ở hoang mạc Najzakhs, bằng cách nào đó được cho rằng cho chất lượng cao hơn gai dầu trồng ở bất kỳ vùng đất nào khắp Arabiapan.)

9. Dao Tut (Từ Pharaoh Tutankhamun): Một loại dao găm bằng sắt của Ai Cập, được tìm thấy trong mộ Pharaoh Tutankhamun và đặt theo tên ông. Tut là một loại dao găm lưỡi thẳng, dài khoảng 30-35 cm, làm từ sắt. Sắt rất hiếm ở Ai Cập cổ đại, thậm chí quý hơn vàng, vì thế dao Tut chỉ được phổ biến trong quân đội bảo vệ Pharaoh. (Xem thêm Phần 2 Chương 12)




10. Thần lửa Abn: Thần lửa của người lữ hành. Trong truyền thuyết bản địa cổ xưa, Abn là một phần tách ra từ thần mặt trời Shams, chỉ là lửa và không có hình dạng thần thánh cố định. Trong các văn bản cổ xưa nhất từ thư viện của vương quốc Otman Tahaldanja, đề cập đến Abn như là một phân thân của thần lửa Ka (thần lửa theo truyền thuyết của người Otman), Abn có hình dạng một người đàn ông gầy trơ xương, râu tóc bốc cháy và đội một cái mũ lớn cũng bốc cháy. Ngài tồn tại trong các đống lửa và ngọn đèn của người lữ hành.

11. Bài thơ không lời: Người Arabiapan biết đến những giai điệu không lời trước. Sau đó phổ lời cho nhạc để nó lưu truyền rộng rãi. Phần lớn các bài nhạc Arabiapan có âm hưởng thơ, dùng những hình tượng quen thuộc trên sa mạc, mang nhiều màu sắc dân gian hoặc thần thoại.

Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương