Cái Xiềng Của Tostearad
C61: Phần 4 - Chương 4

Nhóm lữ hành đã ở ngoài hoang mạc 31 lần mặt trăng mọc. Buổi tối ngày thứ 32, họ nhận thấy những dấu hiệu cho sự hiện diện của ranh giới Gumaunten-Najzakhs(1), trở nên rõ ràng. Xung quanh họ không còn cây cỏ mặn, dừa và chà là. Gió chở thứ mùi của hỗn hợp giữa thức ăn mục, phân động vật và muối. Phiến quân bản địa dùng mọi thứ họ có tạo ra ranh giới làm chậm chân kỵ binh Otman. Kim giả Jibunh ab Sohuip chỉ nói rằng lũ mọi rợ đang trở nên điên rồ, muốn những kẻ giao kèo với ông phải thuyết phục chính người bản địa tự phá bỏ thứ bảo vệ họ, cho lợi ích của chính người bản địa và ký vào giao ước chấp nhận thân phận nô lệ lần nữa.

Gã bịp mù Shouduhud phát hiện ra ranh giới còn trước cả người mắt sáng. Từ xế chiều gã đã khụt khịt cái mũi diều hâu và cáu bẳn với con quỷ Demonio. Demonio bắt được một con thằn lằn quỷ gai, loài có trò tự vệ bằng cách phun máu từ khóe mắt và phải rên rỉ cả buổi về con mắt trái bị máu thằn lằn bắn trúng. Nó trở nên sưng húp và bỏng rát, anh bỏ ăn và để gã mù giật lấy xiên thịt thằn lằn xém lửa. Shouduhud nhai thứ thịt dai như dây thừng. Gã ngồi đưa lưng về hướng gió, bịt kín mũi như tránh dịch, lầm bầm nguyền rủa phiến quân bản địa sẽ phải lãnh đủ thứ mùi của họ khi mùa đông trở lại. Vẫn còn rất lâu đến lúc đó. Giờ đang vào giữa tháng 6, gió đại dương thổi xuôi đưa thứ mùi kinh hoàng của ranh giới Gumaunten-Najzakhs tránh xa ngôi làng của các bộ tộc cực đoan Najzakhs.

Không nhóm lữ hành nào nên từ chối ngựa và lạc đà, đi bộ ngoài hoang mạc dưới cái nóng đỉnh điểm của mùa hè. Họ đi bộ vì một Kim giả thận trọng muốn thử thách cô gái nhỏ đã giao kèo với ông. Một cô gái có lòng can đảm và tài ăn nói, dùng chúng để lập giao kèo, loại giao kèo cần nhiều hơn chỉ cô và các đức tính tốt để hoàn thành nó. Cô ấy có một nhóm đồng hành gồm những người tốt bụng không muốn bỏ mặc cô và một nhóm giám sát tất cả họ. Trong cuộc hành trình nhiều rủi ro, họ đều có thể chết vì những gì hoang mạc ném vào họ. Không lính đánh thuê da đen nào làm nhiều hơn nhiệm vụ giám sát của anh ta. Không ai muốn trông giống kẻ đáng ngờ. Lòng tốt không đem lại thêm thù lao cho lính đánh thuê hay phần thưởng cho người lữ hành. Họ chọn đi con đường đem lại nhiều nước nhất và kiên trì mỗi ngày.

Việc đi bộ khiến cơn khát và chứng say nắng tiếp cận người da trắng trước người da nâu và da đen. Dấu hiệu mất nước vẫn giáng vào Demonio và Iruk Albar đầu tiên. Cô gái thuật sĩ kiên cường hơn bất kỳ người da trắng nào, chỉ nhắm mắt và hơi gục đầu, tay vẫn nắm chặt vai Laahad. Cô ấy vẫn tự đi bằng đôi chân, đôi giày đất sét từ đỡ phần nhiều trọng lượng, khiến các bước chân nhẹ như gió. Với Iruk, Laahad đi chậm để cô ấy theo kịp, nhưng không thể trực tiếp chia sẻ nước cho Demonio. Điều đó sẽ khiến anh trở thành kẻ cản đường. Những tay lính đánh thuê đi cùng đoàn muốn Laahad thực hiện đúng điều cô hứa với kim giả Jibunh ab Sohuip, họ sẽ giết số còn lại khi người ta cản đường. Vì thế, cô gái nhỏ thuyết phục gã bịp mù chia bớt nước cho Demonio. Gã cũng được phát dư túi nước vì gã có vai trò quan trọng trong giao kèo. Toán lính đánh thuê phải giữ gã còn sống dù gã hống hách. Họ uống ít nước hơn trong vài ngày cuối cùng tiến tới ranh giới Gumaunten-Najzakhs.




Ngày 37, gió nồng mùi mục ruỗng. Họ đã trông thấy tận mắt con rắn nâu xỉn nằm vắt ngang đường chân trời. Nó không phải một dòng sông cạn. Ranh giới Gumaunten-Najzakhs là hỗn hợp giữa chất thải và muối, đóng kết lại lấp lánh như quặng dưới nắng sớm. Và vào hoàng hôn có màu nâu đỏ của đất sét nung. Cần nhiều hơn một vài bộ tộc bản địa để tạo ra dòng sông chất thải và nhiều hơn một chục bộ tộc để vận chuyển muối từ biển Tây Arabiapan, vượt qua vùng cát hàng trăm dặm và đổ xuống giữa hoang mạc Najzakhs.

Dòng sông chất bẩn rộng hàng dặm và dài đến ngút tầm mắt nhóm lữ hành. Trong lòng sông cạn là tất cả tài sản của người bản địa ở hoang mạc. Họ thấy vảy cá của bộ tộc cá lớn Aeralg(2), phân chim của bộ tộc chim ưng lớn Alarim(3), da rắn của bộ tộc rắn lớn Araate(4) và lông khỉ của bộ tộc khỉ lớn Hamad(5). Rất nhiều rơm khô, phân con người và con vật từ các bộ tộc rải rác khắp hoang mạc. Chúng là lời khẳng định cho sự tồn tại của một khối liên minh phiến quân. Chúng đã tỏa ra mùi khiến những loài thú lớn và chim ăn xác thối phải di cư. Chúng sẽ làm lũ ngựa chiến và lạc đà kinh tởm. Khi mùa mưa đến, không ai buộc được một con ngựa băng qua ranh giới Gumaunten-Najzakhs, còn đội quân Sajuu cưỡi thảm(6) sẽ bị bắn rơi ngay khi bay vào tầm bắn của số nỏ trăm tên Othanat(6) xếp hàng ở đầu kia dòng sông.


Những người lữ hành thông minh nhất đã sớm nhận ra Kim giả Jibunh ab Sohuip phải có một đội quân gian tế trong lòng phiến quân bản địa. Họ đã ngăn chặn tin tức của các gian tế đến tham chính Harsam ab Hahrat. Hoặc Kim giả đã sớm mua chuộc và thủ tiêu những kẻ phục vụ phe thù địch ông trong các cuộc xung đột nội bộ Najzakhs trước đây. Dù ông chỉ quản lý việc buôn bán, nuôi thân binh không thiện chiến và hiếm nhúng mũi vào quân đội, không có nghĩa ông không tham lam ngôi vị Thiên hoàng. Ông chỉ trông ít giống kẻ phản trắc và chẳng liên quan gì đến lũ người bản địa man rợ sống ngoài hoang mạc.

Laahad đang chờ xiên thịt cừu chín. Iruk Albar giãn gan bàn chân, dù suốt quãng đường hà khắc hay lúc nghỉ ngơi, đôi mắt xám chưa bao giờ ngừng phán xét. Cô đi cùng chỉ để đảm bảo cô gái nhỏ phải đem lại lợi ích cho vương quốc Otman Tahaldanja như đã hứa, hoặc cô sẽ bị cô ấy thủ tiêu bằng mọi cách. Demonio nằm im lìm như xác chết. Shouduhud ngồi cắn chiếc tẩu đất sét rỗng. Gã không đưa tin hay hé nửa lời về giao kèo với Hira Tostearad-anh trai biến mất của cô gái nhỏ Laahad Tostearad. Gã là kẻ bịp bợm nhưng chẳng muốn tỏ ra liên quan đến sự hữu ích(7). Rikamathraa vẫn trung thành với nhiệm vụ bảo vệ. Cô bám sát cô gái nhỏ như cái bóng. Đôi mắt sắc bén và tối như lưỡi con dao găm trong vỏ. Cô đối diện với sự cằn cỗi của hoang mạc, ở vùng cát đầy rẫy xung đột bằng vẻ lạnh lẽo của những bức tượng mèo canh gác kim tự tháp.

"Sáng sớm mai chúng ta sẽ sang bờ bên kia, em chắc ta sẽ sớm gặp người Moloch (thằn lằn quỷ gai). Vùng này thuộc lãnh địa của người Moloch(8). Nếu may mắn, chúng ta sẽ có bữa sáng đầy nước và bánh bột gạo.-" Laahad nói.

"Và cô sẽ làm gì nếu chẳng có gì cả?! Nếu lũ Moloch giết ta như bọn xâm nhập?! Ta chắc rằng không cần quá 20 mũi tên. Trước khi chúng kịp thấy, chúng ta sẽ cùng lên lưng con lạc đà Alait. Ít nhất thì ta không phải đi bộ nữa!"

Gã bịp cáu kỉnh, khụt khịt cái mùi khoằm đã ngả đỏ và việc nói khi bịt mũi khiến chất giọng đặc quánh của gã chỉ trở nên kinh khủng. Cô gái nhỏ vòng qua đống lửa, ngồi xuống trước mặt gã bịp vẫn đưa lưng về hướng gió.





"Nếu ngài ngồi ở đây, ngài sẽ phải chịu đựng mùi hôi đến khi chết khát. Em chắc con lạc đà Alait cũng muốn hất ngài khỏi lưng nó vì ngài ám mùi kinh khủng. Hoặc sang bờ bên kia và ngồi ở đó. Ngài sẽ ở đầu gió và không phải chịu đựng nữa."

"Ta không phải đứa trẻ con. Ta phải nói rằng, trước khi đến Ihsin Ebu, ta đã gửi vài con chim đến Najzakhs để tìm trở giúp từ người của ta. Nhưng ta không biết cái ranh giới này lại độc hại thế. Lũ chim sẽ bay vòng để kiếm ăn trước khi sang kia. Mất quá nhiều thời gian. Ta không chắc chúng sẽ đến đúng người đúng lúc. Sáng mai, thứ chờ chúng ta có thể là hàng chục lưỡi gươm-"

"Ngài Shouduhud, chuyến đi này vốn là trò đánh cược và rủi ro như bất kỳ trò đánh cược nào. Nếu nó quá chắc chắn, không phải đánh cược nữa mà là tiên tri. Điều gì khiến ngài đánh cược đi cùng em ra tận đây?"

"Nếu ta không ở lâu đài Ihsin Ebu, cô không thể khiến lão Jibunh tống chúng ta ra đây. Cô nên biết ơn ta, cô gái! Ta đã ở Ihsin Ebu với cô nên giờ ta phải ở đây! Anh cô chọn con đường hà khắc hơn ta tưởng. Chúng ta, ngay cả cô cũng có thể đã chết khát. Điều quái gì khiến cô nghĩ tất cả vẫn ổn và ta rồi sẽ an toàn ở bờ bên kia?!"

"Anh em em đã luôn đánh cược, nhưng chưa bao giờ để mình giẫm vào con đường cụt. Trong một ván cược, người quản trò và người trả tiền để bị lừa nên được giữ phần tiền bằng nhau, điều đó khiến khách hàng quay lại lần nữa. Trong ván cược này, chúng ta không phải đánh cược mạng sống, những người đón chúng ta không phải đặt cược mạng sống, chúng ta đều sẽ có phần thưởng bằng nhau là một bữa sáng. Ta không phải trả cái giá đắt hơn cái giá người đón chúng tả phải trả."

Shouduhud mù chưa bao giờ nhìn thấy Laahad, nhưng gã nghĩ những kẻ nhà Tostearad đều trông giống nhau. Chúng giống như cát luôn ở dưới ánh mặt trời nhưng chẳng bao giờ bị nung chảy. Cát không giữ nhiều nước nuôi cây sống. Những cái cây không lấy đủ nước mỗi ngày sẽ chết để nuôi những cái cây khác. Mỗi cái cây ngã xuống lại đặt thêm một khúc gỗ xây căn nhà của thần sa mạc. Mỗi ngày tiếp nỗi, khi những cái cây còn đứng vững yên tâm rằng chúng vẫn là kẻ chiến thắng, thì kẻ được lợi sau cùng và hậu hĩnh nhất vẫn là sa mạc. Một gã bịp thành công giống như cái cây vững chãi, cái cây lấy nước từ cát sa mạc phải dè chừng sa mạc.

---


Chú giải:

1. Ranh giới Gumaunten-Najzakhs: Ranh giới cắt đôi vùng hoang mạc ở giữa thành đô Gumaunten và hoang mạc Najzakhs. Nó đại diện cho lời tuyên bố công khai và đơn phương từ người bản địa ở Najzakhs về cuộc chiến với người Otman vương quốc Tahaldanja. (Xem thêm Phần 3 Chương 17-18).


2. Bộ tộc cá lớn Aeralg (Từ cá voi lưng gù Megaptera novaeangliae): Bộ tộc bản địa Arabiapan sống ở hoang mạc Najzakhs thờ vật tổ là loài cá voi lưng gù. Aẻalg là một trong 4 bộ tộc bản địa hùng mạnh nhất, lãnh địa trải dài từ vùng hoang mạc phía Tây Bắc-Tây Nam Najzakhs và sát ven biển Tây Arabiapan. Bộ tộc Aeralg nổi tiếng có các thợ thủ công đóng được loại tàu lớn có thể vượt biển đến tận vương quốc Ai Cập. Phần lớn người bộ tộc này sống trên các con tàu, lênh đênh hàng tháng trời ngoài biển để đánh bắt cá.

Truyền thuyết nói rằng cái tên Aeralg bắt nguồn từ việc người bản địa đầu tiên tìm thấy một con cá khổng lồ đang hấp hối trên bãi biển.

(Xem thêm về cá voi lưng gù tại: https://.smithsonianmag.com/smart-news/humpback-whales-arabian-sea-have-been-isolated-their-friends-70000-years-180953540/)

3. Bộ tộc chim ưng lớn Alarim (Từ chim ưng Falco biarmicus): Bộtộc bản địa Arabiapan sống ở hoang mạc Najzakhs thờ vật tổ là loài chim ưng hoang mạc. Alarim là bộ tộchùng mạnh nhất trong số các bộ tộc bản địa, vị trí nằm ở vùng hoang mạcphía Bắc Najzakhs. Họ nổi tiếng là bộ tộc giàu có và cực đoan nhất trong số các bộ tộc bản địa.

4. Bộ tộc Rắn lớn/Rắn đuôi chuông đầu sừng Araate (Từ rắn đuôi chuông đầu sừng Cerastes_cerastes): Bộ tộc bản địa Arabiapan sống ở hoang mạc Najzakhs, thờ vật tổ là loài rắn đuôi chuông đầu sừng Araate. Araate là một trong bốn bộ tộc hùng mạnh nhất Najzakhs. Họ có các chiến binh nổi tiếng với tài nhảy xa và ném giáo, từng là nỗi kinh hoàng của thảm binh Otman Sajuu trong cuộc chiến tranh xâm lược Arabiapan.


5. Bộ tộc khỉ lớn Hamad(Từ khỉ đầu chó Papio hamadryas): Bộ tộc bản địa Arabiapan sống ở hoang mạc Najzakhs, thờ vật tổ là loài khỉ rừng Hamad. Hamad là một trong bốn bộ tộc hùng mạnh nhất Najzakhs, vị trí nằm ở gần vùng ranh giới phía Tây Nam Hoang mạc Najzakhs-Rừng đen Haub. Họ nổi tiếng với những chiến binh có tài đu trên cây nhanh nhẹn như khỉ, tinh ranh và khôn ngoan hơn người bản địa thông thường.




6. Thảm binh Sajuu: Một chủng trong 7 binh chủng của người Otman. Sajuu là đội quân cưỡi thảm bay.(Xem thêm tại Phần 3-Phần phụ 1)

7. Nỏ trăm tên Othanat (Từ Ōkina ippo/ khatwat kabira nghĩa là Bước chân lớn): Sự ra đời của nỏ trăm tên Othanat là bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực chế tạo vũ khí của người Otman. Nó ra đời từ rất sớm và đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng lãnh thổ của đế quốc Othania của người Otman.

Nỏ Othanat có chất liệu gỗ, có thể dễ dàng lắp ráp và tháo dời từng bộ phận để tiện di chuyển. Một chiếc nỏ tiêu chuẩn rộng hơn một thân lạc đà và dài hai thân rưỡi lạc đà. Một lần có thể bắn ra từ 80-100 mũi tên nhưng độ chính xác không cao.

8. Bộ tộc thằn lằn quỷ gai/thằn lằn sừng Moloch (Từ Moloch horridus hay thằn lằn quỷ gai): Bộ tộc bản địa Arabiapan sống ở hoang mạc Najzakhs, thờ vật tổ là loài thằn lằn quỷ gai. Bộ tộc Moloch có số lượng người trung bình, vị trí nằm ở sát ranh giới phía Đông hoang mạc Najzakhs, nơi gần với thành đô Gumaunten nhất so với các bộ tộc khác.

9. Trước khi vào thành Gumaunten, nhóm của Laahad nhận được một thông điệp từ Hira Tostearad. Thông điệp nói rằng anh gửi cho em gái một gã bịp bợm hữu ích. Gã bịp bợm được nhắc đến là Shouduhud, người vừa bị tống giam vì gây ra một vụ lùm xùm ở cổng thành Raemlamat.

Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương