Cái Xiềng Của Tostearad
C10: Phần 1- Chương 3




Laahad trốn bên cạnh một khóm hai cây chà là cạnh một sạp bán thảm lông cừu. Cô gái nhỏ nhìn khoảng sân, từ lúc người ta đem phủ đài tế lớn bằng những tấm thảm lụa nhiều màu. Chúng tượng trưng cho hoa sa mạc, như một điều hiếm hoi và là phép màu của sự sống. Những dây vải lụa màu xanh nối bốn trụ lớn bốn góc kết nối tình đoàn kết của người du mục. Lữ đoàn cầu mưa sẽ xuất hiện mỗi năm vào tháng 7 và tháng 8. Vũ công gồm cả nam giới và phụ nữ sẽ nhảy quanh những chảo lửa riêng, xếp quanh vạc lửa lớn nhất đặt ở trung tâm. Khi mặt trời lên đỉnh đầu, thương nhân nghỉ buôn bán. Những sứ giả truyền nguyện vọng đến thần Umtir sẽ bắt đầu nhảy múa từ bên dưới đài tế, lên bậc thang và bắt đầu cầu nguyện bằng những vũ điệu của riêng từng đoàn. Người Otman luôn quăng Diras tế lễ, người Do Thái quăng nhiều nhất là Giriq và người Digan quăng Ahas. Giống người mắt xám tin vào lời dạy của thần Saidanja, họ tin khi cho càng nhiều sẽ nhận lại càng nhiều.




Lữ đoàn nhận được nhiều tiền nhất chỉ có một vũ công nam đang biểu diễn. Tên của họ là Due rahma. Một đoàn tuyệt vời trong những năm mùa mưa đến trễ. Người ta đồn họ được thần Umtir ưu ái, vì thường chỉ vài ngày sau khi họ tế cơn mưa sẽ kéo đến. Có những gương mặt hồ hởi đã chen giữa những cuộc nói chuyện, bên cạnh những thông tin về xung đột. Rất nhiều Diras vàng được đổ như mưa xuống vạc lửa lớn ở giữa tượng trưng cho sa mạc. Chỉ đồng Diras được ban phép. Chúng phải dập lửa như cơn mưa sẽ dập cái nóng.




Những lữ đoàn cầu mưa đã lặp lại các điệu vũ lần thứ hai. Cô gái nhỏ thấy những điệu vũ quen thuộc, từ nơi ẩn nấp và lẩm nhẩm theo.

"Alf Layla wa Layla.


Bộ hành lữ khách.

Marid. Khắc thơ lên gió.

Ifrit lửa rực đôi cánh. Ta có cây sáo từ xương ống chó sói đầu đàn.

Bằng những ốc đảo, Ghoul, Jann.

Người trung thực khiêm tốn xem trận chiến còn dài.

Chào Nasnas và anh sẽ chỉ có kho báu nếu nghiêng đầu lịch thiệp cho viên kim cương Silat duyên dáng."




Vũ công của Due rahma để trần, ngực quấn một lớp vải lụa màu xanh mỏng nối đến hai cánh tay. Thep nhịp điệu của nhạc cụ. Anh nhảy quanh chảo than nóng rực, nhấn những bước nhanh, nhẹ như điệu nhảy của những hạt mưa. Bắt lấy những đồng Diras được ném trên không và uyển chuyển ấn chúng xuống chảo than đỏ. Khi khúc sáo Nay chuyển nhịp, anh bắt những viên than trên cùng bằng tay không, tung hứng chúng và lại dụi nhanh chóng xuống. Bàn tay xòe rộng đỏ rực. Giậm nhịp phối hợp cùng bàn chân và luôn đảo bước liên tục. Xoay vòng mũi chân gần áp sát chảo than đỏ, theo nhịp giật đồng xèng. Giai điệu sẽ giãn dần cho đến khi có thể chuyển mình chậm rãi, và vũ công cúi đầu như cách loài lạc đà tôn kính dòng nước ốc đảo ban tặng. Ngẩng đầu, xoay vòng những bước ngắn đều, và bất ngờ nhún mạnh lấy đà bật vòng qua chảo lửa như vẽ một cầu vồng. Trở lại điệu vũ ban đầu.




Một điệu nhảy chính xác và nhanh nhẹn. Tiếng gõ lanh canh của xèng trên trống Riq dồn dập và tiếng đàn Oud dìu dắt. Nhiều người từ mọi tôn giáo quỳ quanh lễ đài. Họ cúi sát đầu xuống cát, lầm rầm với hai bàn tay úp lên mặt, và sẽ giơ cao hai tay lên trời khi kết thúc một đoạn kinh cầu. Dưới nắng, mồ hôi của họ đổ xuống cát nóng. Đó là nguyện vọng của người du mục gửi đến thần Umtir, mong muốn một cơn mưa. Buổi lễ sẽ tiếp tục cho đến xế chiều khi thời tiết đã dịu bớt và các sạp hàng trở lại buôn bán.




Cô gái nhỏ hơi lùi, nép sát vào tấm thảm lông cừu phủ trên sào. Ông già Digan vừa trở mình. Dù ở Athrayir vẫn có những người đơn độc bị bắt làm nô lệ. Có rất nhiều chợ buôn nô lệ ở kinh đô. Vài năm trước, khi anh em bản địa theo chân một thương đoàn để bán vỏ cây trầm Comrha, Laahad từng thấy những người lao động khổ sai chết chất đầy trên một chiếc xe ngựa kéo, ngang qua đường vào sẩm tối. Người ta đồn dân Otman dùng họ để nuôi sư tử. Sau sự kiện người Ai Cập, một phần người Otman giàu có chạy trốn khỏi Gumaunten, đến thánh địa tìm một nơi trú ẩn. Họ không giỏi chịu sự khắc nghiệt của việc chạy nạn. Họ cần nô lệ và vì thế giá nô lệ đã được đẩy lên cao.


Một nô lệ phải có ấn sẹo trên mặt để đánh dấu. Họ không thể là người giám hộ. Laahad đã luôn quan sát những nắm cỏ mặn Hallad mà con lạc đà của cô ăn trong suốt chuyến hành trình. Chúng cháy và xơ xác. Người sa mạc biết một vài cách tìm dấu hiệu của mưa. Cô gái nhỏ có một mẩu rễ cây đậu Tul, đã đem theo từ ngôi làng Taqu và bỏ nó trong túi tiền. Nó đã mọc mốc trắng.




----

Chú thích:

-Due rahma (duealarahma): Một lời cầu nguyện gửi đến lòng nhân từ.

Thần Umtir/ đơn vị tiền tệ: Chú thích ở Phần 1- chương 2.

- Af layla wa layla: Chú thích ở EV NVQS.

-Đậu Tul (Hư cấu, từ cụm "tustakhdam lifutur aljamal" nghĩa là Dùng cho bữa sáng của loài lạc đà): Ở đây chỉ một loại cây trồng lấy hạt. Nó là loại đậu có khả năng thích ứng cao và được trồng ở nhiều nơi ở Arabiapan. Có thể mọc được ở phía Đông Bắc của sa mạc Akhmakar.





Nhạc cụ (Nguồn: http://tatham.vn/nhac-cu-trong-am-nhac-cua-nguoi-a-rap-a50.html)

-Riq (Daff) là một trống cơm nhỏ được bao phủ bởi một lớp da dê hoặc da cá, trải dài trên một khung gỗ khảm ngọc trai. Riq có năm bộ hai cặp chũm chọe đồng (đường kính xấp xỉ 5 cm) khoảng cách đồng đều xung quanh khung, và được gọi là "sagaat trong tiếng Ả Rập. Các chũm chọe tạo âm thanh leng keng rất thú vị.

-Nay là một sáo thổi xiên làm từ cây trúc. Nay được biết đến ở vùng Cận Đông từ thời cổ đại. Nay thường có 6 lỗ ở phía trước cho các ngón tay để chơi và 1 lỗ bên dưới cho ngón tay cái.

-Oud là một trong những loại đàn phổ biến nhất trong âm nhạc Ả Rập. Tên của nó có nguồn gốc từ tiếng Ả Rập "một dải gỗ mỏng", và điều này đề cập đến các dải gỗ được sử dụng để tạo nên cơ thể tròn của đàn.






Bình luận

  • Bình luận

  • Bình luận Facebook

Sắp xếp

Danh sách chương