Bộ Sưu Tập Tội Ác
-
Chương 12
Caleb Shaw làm việc trong phòng đọc Sách Quý Hiếm. Có vài độc giả quen yêu cầu được đọc một số tài liệu trong khu sách Rosenwald; việc này phải có sự đồng thuận của người giám sát. Tiếp theo ông dành thời gian nói chuyện điện thoại với một giáo sư đại học - người đã viết cuốn sách nói về thư viện riêng của Jefferson*. Sau đó Jewell English, người phụ nữ già thường có mặt trong phòng đọc sách, yêu cầu được xem bản sáchNhững tiểu thuyết rẻ tiềncủa Beadle. Bà ta rất thích thú với loạt truyện của Beadle và bà ta kể cho Caleb nghe rằng bà ta có một bộ sưu tập khá hay. Là một quý bà mảnh dẻ tóc trắng như cước và nụ cười thường trực trên môi, Caleb nghĩ rằng bà ta cũng cô đơn. Chồng bà ta mất cách đây mười năm còn gia đình bà ta thì tan tác nhiều nơi trong lòng nước Mỹ - bà ta tâm sự với Caleb. Đó là lý do ông luôn bắt chuyện với bà ta khi bà ta đến thăm phòng đọc sách. [* Tổng thống Jeferson đã bán thư viện sách của mình cho quốc gia sau khi người Anh thiêu trụi thành phố Washington trong cuộc chiến chống thực dân Anh vào năm 1812, đó là cơ sở để hình thành nên Thư viện Quốc hội của ngày hôm nay.]
“Bà thật sự rất may mắn, bà Jewell à”, Caleb nói, “Cuốn sách vừa mới được chuyển từ bộ phận đối thoại tới đây. Cần phải đưa nó vào danh mục sách”. Ông đưa bà lão cuốn sách, trò chuyện với bà thêm vài phút về cái chết bất thình lình của Jonathan DeHaven rồi quay trở lại bàn làm việc. Anh nhìn bà lão chầm chậm đeo cặp kính dày vào và chăm chú đọc bản sách cũ, ghi chép vào vài tờ giấy bà mang theo. Vì những lý do riêng nên người đọc chỉ được mang theo một cây viết chì và giấy đã xé rời vào phòng đọc, và túi xách phải được kiểm tra trước khi ra về.
Cửa phòng bật mở, Caleb đưa mắt nhìn người phụ nữ vừa bước vào. Cô ấy làm việc ở bộ phận hành chính. Ông đứng lên chào.
“Chào anh, Caleb. Tôi có tin nhắn cho anh từ ông Kevin”.
Keven Philips là quyền giám đốc, thay thế cho DeHaven sau khi ông ta mất.
“Kevin à? Sao ông ấy không gọi hay là gửi thư điện tử cho tôi?”
“Tôi nghĩ ông ấy đã cố gắng liên lạc với anh, nhưng lúc thì máy bận lúc thì anh không nhấc máy. Và vì lý do nào đó mà ông ta không muốn thư điện tử cho anh”.
“Thế à, hôm nay quả thật tôi khá bận rộn”.
“Tôi nghĩ việc này khá khẩn cấp”. Cô ta trao ông phong bì thư rồi bước ra. Caleb cầm tin nhắn rồi trở về bàn làm việc, chợt anh vấp phải tấm thảm dưới chân ghế, làm rớt cặp kính trên bàn xuống đất và loay hoay thế nào đó lại đạp vỡ tròng kính luôn.
“Ôi trời ơi, sao tôi vụng về thế này”. Ông nhìn vào phong bì và nhặt cặp kính vỡ lên. Giờ thì ông chẳng đọc được gì sất vì không có kính. Mà tin nhắn này thì khẩn cấp theo lời người phụ nữ ban nãy.
“Anh vấp tấm thảm ấy vài lần rồi đấy Caleb à”, bà Jewell nhắc nhở ông.
“Cám ơn sự quan tâm của bà”, Calen nghiến răng trả lời. Bất chợt ông nhìn bà lão, “Bà Jewell, bà có thể cho tôi mượn kính của bà để đọc tin nhắn được không?”
“Mắt tôi kém lắm. E là kính của tôi không hợp với anh”.
“Xin bà đừng lo, mắt tôi cũng bị mờ cỡ ấy, ít nhất là khi nói đến chuyện đọc sách”.
“Hay là tôi đọc tin nhắn giùm anh cho tiện?”
“Ừm, không được. Ý tôi là, nó có thể… bà biết đó”.
Bà lão vỗ tay cái độp và thì thào, “Ý anh là tin nhắn có thể là tin mật đúng không? Chuyện này hồi hộp quá”.
Ông liếc nhìn tờ giấy ngay khi bà Jewell đưa anh cặp kính. Ông đeo vào, ngồi xuống bàn làm việc và đọc tin nhắn cẩn thận. Kevin Philips yêu cầu ông ngay lập tức đến bộ phận hành chính văn phòng ở tầng an toàn của tòa nhà. Ông chưa bao giờ được triệu tập đến văn phòng hành chính trước đây, ít nhất là không phải theo kiểu này. Chầm chậm gấp đôi tờ giấy, ông bỏ vào túi quần.
“Cám ơn bà Jewell, tôi nghĩ bà với tôi cùng độ mờ vì tôi nhìn rất rõ bằng cặp kính của bà”. Ông trả lại kính, chuẩn bị tâm lý cho chuyện không hay và bước đi.
Ở phòng hành chính ông thấy Kevin Philips đang ngồi với một người đàn ông mặc bộ complê màu đen được giới thiệu là luật sư của DeHaven.
“Theo những điều khoản trong di chúc của ông DeHaven, ông được chỉ định là người ủy quyền thư viện sách của ông ấy, thưa ông Shaw”, người luật sư vừa nói vừa trao Caleb một tờ giấy, hai chiếc chìa khóa và một mảnh giấy nhỏ.
“Cái lớn là chìa khóa nhà của ông DeHaven, cái nhỏ là chìa khóa phòng thư viện nơi để bộ sưu tập sách của ông ấy. Dãy số đầu tiên trên miếng giấy là mã số hệ thống an ninh tại nhà ông DeHaven. Dãy số thứ hai là tổ hợp mã số để mở cửa thư viện, thư viện của ông ấy được mở bằng cả khóa và mã số”.
Caleb đờ đẫn nhìn những thứ ông vừa được trao, “Người ủy quyền thư viện của ông ấy ư?”
Philips lên tiếng, “Đúng vậy, Caleb à. Theo tôi hiểu thì ông đã giúp ông ta bổ sung sách cho bộ sưu tập của ông ấy”.
“Vâng”, Caleb thừa nhận, “Ông ấy có đủ tiền và sở thích tinh tế để có một bộ sưu tập khá chuẩn”.
“Hẳn ông ấy đã rất biết ơn sự giúp đỡ của ông”, người luật sư nói, “Theo các điều khoản trong di chúc, ông được toàn quyền tiếp cận bộ sưu tập của ông ấy. Những điều ông cần làm là kiểm kê tất cả các cuốn sách của ông ấy, định giá kho sách và chia thành từng phần thích hợp theo ý của ông và bán đi, số tiền thu được sẽ chuyển đến những tổ chức từ thiện đã được chỉ định trong di chúc”.
“Ông ấy muốn tôi bán bộ sưu tập của ông ấy sao? Còn gia đình ông ấy thì sao?”
“Công ty chúng tôi đại diện cho dòng họ DeHaven nhiều năm rồi. Ông ta không còn bà con họ hàng nào cả”, người luật sư trả lời, “Tôi nhớ rằng một trong những người đồng nghiệp về hưu của tôi có nói ông DeHaven đã từng kết hôn nhiều năm trước. Rõ ràng cuộc hôn nhân ấy không kéo dài được lâu”. Người luật sư dừng lại, có vẻ như đang lục lọi trí nhớ của mình, “Tôi nghĩ ông ta nói rằngcuộc hôn nhân đó bị hủy hoạithì phải. Chuyện này xảy ra trước khi tôi vào làm ở công ty này. Dù sao đi nữa, ông ấy không có con cái nên sẽ không có ai đòi quyền thừa kế. Ông sẽ được hưởng một phần trăm hoa hồng từ số tiền bán sách”.
Philips chen vào, “Đó có thể là một số tiền khá lớn đó Caleb à”.
“Tôi sẽ làm việc này vì Jonathan mà không lấy một đồng nào”, Caleb nói nhanh.
Người luật sư tủm tỉm cười, “Tôi sẽ giả bộ như là tôi chưa hề nghe câu đó. Có vẻ như ông sẽ phải làm nhiều chuyện hơn ông nghĩ đấy. Vậy ông có đồng ý với số tiền hoa hồng không, thưa ông?”
Caleb lưỡng lự rồi gật đầu, “Vâng, tôi đồng ý. Vì Jonathan”.
“Tốt rồi. Xin ông ký tên vào đây để chứng thực ông đã chấp nhận và đã nhận chìa khóa và mã số”. Người luật sư đẩy một trang tài liệu cho Caleb, ông ký tên một cách vất vả vì không có cặp kính.
Người luật sư kết luận lại công việc bằng câu, “Vậy là trăm sự nhờ ông”.
Caleb trở về phòng làm việc và nhìn chằm chằm vào hai chiếc chìa khóa. Vài phút sau ông quyết định gọi Milton, Reuben và Stone. Ông bảo với họ rằng mình không muốn đến nhà DeHaven một mình. Tất cả đều đồng ý sẽ hộ tống ông đêm hôm đó.
“Bà thật sự rất may mắn, bà Jewell à”, Caleb nói, “Cuốn sách vừa mới được chuyển từ bộ phận đối thoại tới đây. Cần phải đưa nó vào danh mục sách”. Ông đưa bà lão cuốn sách, trò chuyện với bà thêm vài phút về cái chết bất thình lình của Jonathan DeHaven rồi quay trở lại bàn làm việc. Anh nhìn bà lão chầm chậm đeo cặp kính dày vào và chăm chú đọc bản sách cũ, ghi chép vào vài tờ giấy bà mang theo. Vì những lý do riêng nên người đọc chỉ được mang theo một cây viết chì và giấy đã xé rời vào phòng đọc, và túi xách phải được kiểm tra trước khi ra về.
Cửa phòng bật mở, Caleb đưa mắt nhìn người phụ nữ vừa bước vào. Cô ấy làm việc ở bộ phận hành chính. Ông đứng lên chào.
“Chào anh, Caleb. Tôi có tin nhắn cho anh từ ông Kevin”.
Keven Philips là quyền giám đốc, thay thế cho DeHaven sau khi ông ta mất.
“Kevin à? Sao ông ấy không gọi hay là gửi thư điện tử cho tôi?”
“Tôi nghĩ ông ấy đã cố gắng liên lạc với anh, nhưng lúc thì máy bận lúc thì anh không nhấc máy. Và vì lý do nào đó mà ông ta không muốn thư điện tử cho anh”.
“Thế à, hôm nay quả thật tôi khá bận rộn”.
“Tôi nghĩ việc này khá khẩn cấp”. Cô ta trao ông phong bì thư rồi bước ra. Caleb cầm tin nhắn rồi trở về bàn làm việc, chợt anh vấp phải tấm thảm dưới chân ghế, làm rớt cặp kính trên bàn xuống đất và loay hoay thế nào đó lại đạp vỡ tròng kính luôn.
“Ôi trời ơi, sao tôi vụng về thế này”. Ông nhìn vào phong bì và nhặt cặp kính vỡ lên. Giờ thì ông chẳng đọc được gì sất vì không có kính. Mà tin nhắn này thì khẩn cấp theo lời người phụ nữ ban nãy.
“Anh vấp tấm thảm ấy vài lần rồi đấy Caleb à”, bà Jewell nhắc nhở ông.
“Cám ơn sự quan tâm của bà”, Calen nghiến răng trả lời. Bất chợt ông nhìn bà lão, “Bà Jewell, bà có thể cho tôi mượn kính của bà để đọc tin nhắn được không?”
“Mắt tôi kém lắm. E là kính của tôi không hợp với anh”.
“Xin bà đừng lo, mắt tôi cũng bị mờ cỡ ấy, ít nhất là khi nói đến chuyện đọc sách”.
“Hay là tôi đọc tin nhắn giùm anh cho tiện?”
“Ừm, không được. Ý tôi là, nó có thể… bà biết đó”.
Bà lão vỗ tay cái độp và thì thào, “Ý anh là tin nhắn có thể là tin mật đúng không? Chuyện này hồi hộp quá”.
Ông liếc nhìn tờ giấy ngay khi bà Jewell đưa anh cặp kính. Ông đeo vào, ngồi xuống bàn làm việc và đọc tin nhắn cẩn thận. Kevin Philips yêu cầu ông ngay lập tức đến bộ phận hành chính văn phòng ở tầng an toàn của tòa nhà. Ông chưa bao giờ được triệu tập đến văn phòng hành chính trước đây, ít nhất là không phải theo kiểu này. Chầm chậm gấp đôi tờ giấy, ông bỏ vào túi quần.
“Cám ơn bà Jewell, tôi nghĩ bà với tôi cùng độ mờ vì tôi nhìn rất rõ bằng cặp kính của bà”. Ông trả lại kính, chuẩn bị tâm lý cho chuyện không hay và bước đi.
Ở phòng hành chính ông thấy Kevin Philips đang ngồi với một người đàn ông mặc bộ complê màu đen được giới thiệu là luật sư của DeHaven.
“Theo những điều khoản trong di chúc của ông DeHaven, ông được chỉ định là người ủy quyền thư viện sách của ông ấy, thưa ông Shaw”, người luật sư vừa nói vừa trao Caleb một tờ giấy, hai chiếc chìa khóa và một mảnh giấy nhỏ.
“Cái lớn là chìa khóa nhà của ông DeHaven, cái nhỏ là chìa khóa phòng thư viện nơi để bộ sưu tập sách của ông ấy. Dãy số đầu tiên trên miếng giấy là mã số hệ thống an ninh tại nhà ông DeHaven. Dãy số thứ hai là tổ hợp mã số để mở cửa thư viện, thư viện của ông ấy được mở bằng cả khóa và mã số”.
Caleb đờ đẫn nhìn những thứ ông vừa được trao, “Người ủy quyền thư viện của ông ấy ư?”
Philips lên tiếng, “Đúng vậy, Caleb à. Theo tôi hiểu thì ông đã giúp ông ta bổ sung sách cho bộ sưu tập của ông ấy”.
“Vâng”, Caleb thừa nhận, “Ông ấy có đủ tiền và sở thích tinh tế để có một bộ sưu tập khá chuẩn”.
“Hẳn ông ấy đã rất biết ơn sự giúp đỡ của ông”, người luật sư nói, “Theo các điều khoản trong di chúc, ông được toàn quyền tiếp cận bộ sưu tập của ông ấy. Những điều ông cần làm là kiểm kê tất cả các cuốn sách của ông ấy, định giá kho sách và chia thành từng phần thích hợp theo ý của ông và bán đi, số tiền thu được sẽ chuyển đến những tổ chức từ thiện đã được chỉ định trong di chúc”.
“Ông ấy muốn tôi bán bộ sưu tập của ông ấy sao? Còn gia đình ông ấy thì sao?”
“Công ty chúng tôi đại diện cho dòng họ DeHaven nhiều năm rồi. Ông ta không còn bà con họ hàng nào cả”, người luật sư trả lời, “Tôi nhớ rằng một trong những người đồng nghiệp về hưu của tôi có nói ông DeHaven đã từng kết hôn nhiều năm trước. Rõ ràng cuộc hôn nhân ấy không kéo dài được lâu”. Người luật sư dừng lại, có vẻ như đang lục lọi trí nhớ của mình, “Tôi nghĩ ông ta nói rằngcuộc hôn nhân đó bị hủy hoạithì phải. Chuyện này xảy ra trước khi tôi vào làm ở công ty này. Dù sao đi nữa, ông ấy không có con cái nên sẽ không có ai đòi quyền thừa kế. Ông sẽ được hưởng một phần trăm hoa hồng từ số tiền bán sách”.
Philips chen vào, “Đó có thể là một số tiền khá lớn đó Caleb à”.
“Tôi sẽ làm việc này vì Jonathan mà không lấy một đồng nào”, Caleb nói nhanh.
Người luật sư tủm tỉm cười, “Tôi sẽ giả bộ như là tôi chưa hề nghe câu đó. Có vẻ như ông sẽ phải làm nhiều chuyện hơn ông nghĩ đấy. Vậy ông có đồng ý với số tiền hoa hồng không, thưa ông?”
Caleb lưỡng lự rồi gật đầu, “Vâng, tôi đồng ý. Vì Jonathan”.
“Tốt rồi. Xin ông ký tên vào đây để chứng thực ông đã chấp nhận và đã nhận chìa khóa và mã số”. Người luật sư đẩy một trang tài liệu cho Caleb, ông ký tên một cách vất vả vì không có cặp kính.
Người luật sư kết luận lại công việc bằng câu, “Vậy là trăm sự nhờ ông”.
Caleb trở về phòng làm việc và nhìn chằm chằm vào hai chiếc chìa khóa. Vài phút sau ông quyết định gọi Milton, Reuben và Stone. Ông bảo với họ rằng mình không muốn đến nhà DeHaven một mình. Tất cả đều đồng ý sẽ hộ tống ông đêm hôm đó.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook