Bí Mật Một Gia Tài
-
Chương 1
Eugenie Marlitt (1825 - 1887)
Sáng hôm ấy, ở khắp các góc phố trong thành phố X đều dán những tờ quảng cáo đỏ báo tin nhà ảo thuật trứ danh Ooclôpxki đã đến cùng các tiết mục kỳ diệu của anh. Một thiếu phụ đến từng nhà bán vé. Nàng rất đẹp. Bộ tóc vàng hung lộng lẫy, dáng dấp kiều diễm và quý phái, nhưng bộ mặt dịu dàng của nàng xanh, nhợt nhạt như xác chết – người ta thường nói thế và những lúc hiếm hoi nàng ngước cặp lông mi vàng óng lên, đôi mắt xám sẫm chất chứa vẻ êm dịu gần như thê thảm làm xúc động lòng người.
Nàng vào cả nhà ông Hêluy, ngôi nhà sang trọng nhất ở phố chợ.
- Thưa bà, – Hăngri, người đầy tớ ở tầng dưới gọi, – vợ người làm ảo thuật đến.
- Chị ta muốn gì? – Một giọng đàn bà nghiêm khắc hỏi.
- Chồng chị ấy biểu diễn ngày mai, chị ấy muốn mời bà mua một vé vào xem.
- Chúng ta là những tín đồ lương thiện, và cũng không có tiền để tiêu cho những trò hề ấy. Đuổi họ đi, Hăngri!
Người đầy tớ đóng cửa phòng lại. Bác gãi tai, nét mặt bối rối, vì người biểu diễn chắc đã nghe thấy hết. Nàng đứng sững sờ trước mặt bác một lúc: mặt nàng thoáng đỏ lên và một tiếng thở dài nặng nề từ trong ngực thốt ra... Ngay lúc ấy, một cánh cửa nhỏ trổ trên cửa lớn hé ra, có tiếng đàn ông khẽ hỏi mua một vé, vé đưa ra, một đồng êquy nhẹ đưa vào tay thiếu phụ. Trước khi nàng kịp ngước mắt lên, cánh cửa nhỏ đã đóng lại. Tấm rèm xanh rủ những nếp mờ che sau cửa kính.
Hăngri mở cửa và mỉm cười vui vẻ, người đàn bà đi ra với những bước chân ngập ngừng để tiếp tục con đường chông gai của mình.
Hôm sau, phòng khánh tiết ở thị sảnh chật ních người xem. Hăngri lọt vào giữa đám đống, phải chen chúc mới thoát ra được để đến gần chủ. Ông ngồi cạnh một người bạn là bác sĩ Buêơm trên khán đài, giữa những người có địa vị trong tỉnh.
Người xem tuôn đến cũng dễ hiểu. Chương trình hứa hẹn những tiết mục tuyệt diệu và tiết mục cuối cùng được viết như sau: “Bà Ooclôpxca sẽ xuất hiện trong vai Vankiri (1). Sáu người lính sẽ nổ súng vào bà, bằng một nhát kiếm, bà sẽ chém đứt ngang sáu viên đạn đang bay”.
Dân chúng ở X đến đây chủ yếu để nhìn thấy điều phi thường này. Người đàn bà trẻ và đẹp đã làm cho mọi người chú ý, ai nấy muốn thấy nét mặt của nàng sẽ như thế nào khi các nòng súng chĩa vào nàng... Nhà ảo thuật cũng thu hút được sự chú ý của công chúng bằng các trò nhanh tay. Anh là người mà các bà thường gọi là một nhân vật lý thú. Người vừa phải, mềm mại dong dỏng cao, anh có nét mặt đều đặn, tóc đen, hai mắt đầy tình cảm, cử chỉ lịch sự và cách nói tiếng Đức nhấn mạnh giọng càng làm cho anh thêm hấp dẫn. Nhưng mọi giá trị ấy đều bị quên ngay khi sáu người bồng súng do một viên đội chỉ huy bước vào. Cử toạ bỗng náo nhiệt. Có thể nói đây là tiếng ầm ĩ của các ngọn sóng vỗ vào đá. Rồi tiếp đến là sự lặng lẽ đột ngột như lo sợ.
Người Ba Lan tiến đến gần một cái bàn và đóng thuốc súng vào vỏ đạn trước mặt công chúng. Anh lấy búa nện lên từng viên đạn, để bằng tiếng động ấy, làm cho khán giả đang hồi hộp tin rằng đấy là những viên đạn thật. Rồi anh đưa cho mỗi người lính một viên và bảo họ nạp đạn.
Nhà ảo thuật giơ chuông lắc.
Một người đàn bà từ sau bức màn rộng bước ra. Nàng thong thả tiến lên dọc theo sân khấu và đến đứng trước mặt những người lính. Sự xuất hiện thật tuyệt diệu! Một chiếc mộc che trên cánh tay trái, tay phải nàng cầm kiếm. Chiếc áo dài trắng rủ thành nhiều nếp rộng xuống tận chân, chung quanh hông buộc các vảy bạc. Và tấm thân tuyệt đẹp được bảo vệ bằng chiếc áo giáp lóng lánh. Nhưng trang phục rực rỡ ấy so làm sao được với ánh vàng lóng lánh của bộ tóc luôn như sóng từ chiếc mũ sắt xuống tận gần gấu áo dài.
Khuôn mặt xanh xao và buồn rầu hướng về phía các họng súng gây chết chóc. Không một sợi lông mi rung động. Không thấy một xao động nào ở bộ áo bồng bềnh... Nàng đứng đấy như một pho tượng đá... Tiếng hô cuối cùng vang lên trong gian phòng lặng lẽ, sáu tiếng súng nổ cùng một loạt... Thanh kiếm chém vào không khí rít lên, và những nửa viên đạn rụng xuống sàn.
Mọi người còn thấy nàng Vankiri đứng bất động... Khói thuốc súng làm cho không thấy rõ nét mặt nàng và áo giáp của nàng như mờ đi qua đám mù... rồi bỗng nhiên nàng loạng choạng, chiếc mộc, thanh kiếm rơi loảng xoảng xuống đất. Nàng giơ tay phải ra như để tìm chỗ bám rồi ngã gục vào tay người chồng vừa chạy đến cùng tiếng kêu như xé lòng thốt lên: “Ôi, tôi trúng đạn...”. Anh ôm nàng ra phía sau bức màn, rồi như một người điên đang thịnh nộ lao đến chỗ mấy người lính.
Mấy người lính đã được lệnh dùng răng cắn rút đầu đạn khi nạp đạn và giữ lại ở miệng, tất cả phép màu là ở chỗ ấy. Tuy vậy vẫn có một người vốn là nông dân vụng về – nên rất lúng túng khi nhìn thấy đám đông và mất bình tĩnh đúng vào lúc hiểm. Khi năm người kia theo lệnh nhà ảo thuật lấy ngay đầu đạn ở miệng ra, thì anh ta hoảng hốt thấy mình chỉ nhả ra vài hạt thuốc súng.... Viên đạn của anh ta đã xuyên qua người đàn bà bất hạnh kia.
Thấy thế, người Ba Lan thất sắc vì đau đớn và thất vọng, mất bình tĩnh, đấm ngay vào mặt người vô ý thức mà trở thành tội phạm.
Ngay lúc ấy, gian phòng bỗng rối loạn hẳn lên. Nhiều bà ngất đi, nhiều tiếng hét lên gọi thầy thuốc. Bác sĩ Buêơm là người đầu tiên hiểu rõ sự việc đã có mặt ở sau bức màn, bên cạnh người đàn bà bị thương. Khi ông bước ra, mặt tái đi vì xúc động, ông nói nhỏ với Hêluy: “Người đàn bà diễm lệ thật đáng thương ấy sắp chết, không phương cứu chữa”.
Một giờ sau, vợ người làm ảo thuật đã nằm trên một chiếc giường ở khách sạn Liông. Người ta khiêng nàng đến đây trên một chiếc ghế xôpha, Hăngri là một trong mấy người khiêng.
Người đàn bà nằm bất động, hai mắt nhắm nghiền. Bộ tóc tuột xuống toả từng mảng rối tung trên gối và trên thành giường, tóc khoanh từng vòng trên tấm thảm sẫm màu... Người làm ảo thuật quỳ trước giường, bàn tay người bị thương đặt trên đầu anh đang gục xuống chăn.
- Fê (2) ngủ ư? – Nàng thì thầm và cố mở mắt ra.
Người làm ảo thuật ngẩng đầu lên:
- Phải, – anh khẽ thốt lên qua đôi môi như đang co lại vì đau đớn, – con gái người chủ nhà đem nó về phòng cô ấy, nó ngủ trên một chiếc giường trắng nhỏ... con chúng ta được chăm nom chu đáo, ở nơi có thể yên tâm. Mêta, kho báu dịu hiền của anh ạ!
Người đàn bà lộ vẻ đau đớn vô tả khi đưa mắt nhìn người chồng mắt đầy thất vọng.
- Giaxcô, em chết mất! – Nàng rên lên.
Người nghệ sĩ quỵ xuống thảm và quằn quại trong nỗi đau khổ tột cùng:
- Mêta, Mêta ơi, đừng bỏ anh! – Anh kêu lên – Em là ánh sáng trên con đường tối tăm của anh! Em là vị thiên thần tự găm vào trái tim mình những chiếc gai của cái nghề đáng nguyền rủa của anh, để anh khỏi vướng phải chúng. Anh làm thế nào mà sống được nếu em không ở bên anh, nếu anh mất đi sự che chở của đôi mắt cẩn mật của em, của trái tim đầy tình yêu khôn tả của em?
Anh khóc rất nhỏ.
Một nụ cười đau khổ nở trên môi người đang hấp hối. Nàng đang cố gắng nhấc đầu lên, anh luồn tay xuống đỡ và bàn tay phải anh áp mặt vợ vào ngực mình như điên dại.
- Giaxcô, bình tĩnh lại anh... hãy tỏ rõ là một người đàn ông! – Nàng rền rĩ.
Đầu nàng tuột xuống như bất tỉnh, nhưng đôi mắt đã gần dại đi của nàng lại mở, có thể nói rằng sự sống sắp tắt hẳn nhưng còn cố bám lấy cái vỏ bọc đã suy nhược. Đôi môi sắp biến thành cát bụi ấy còn phải trăng trối thêm, trái tim ấy chưa thể ngừng đập ngay để đem xuống lòng đất những nỗi bứt rứt của tấm lòng một người mẹ đau khổ khôn tả:
- Anh bất công đối với mình, Giaxcô ạ, – nàng nói sau một lúc im lặng để thu thập lại sức lực cuối cùng. – Anh đã làm cho em thành một người sung sướng nhất trong các người vợ. Ôi, Giaxcô. Nỗi lo âu về Fê đang hành hạ giờ phút cuối cùng của em. Em xin anh một hy sinh rất lớn, Giaxcô ạ... Anh hãy xa Fê... hãy giao con cho những người giản dị và nhân hậu chăm nom.... để cho nó lớn lên trong một gia đình yên tĩnh... hãy hứa với em điều ấy đi, chồng yêu quý của em.
Người đàn ông ấy đã hứa bằng một giọng nghẹn ngào nước mắt.
Khi rạng động lọt qua cửa sổ rắc những bông hồn ánh sáng lên thi thể đẹp đẽ của người đàn bà này, nét mặt nàng đã biến đổi, không còn mang một dấu vết kinh hoàng nào của lúc cuối cùng. Ooclôpxki lăn vào cái thi thể lạnh giá ấy, phải nhiều người mới gỡ anh ra được để lôi sang phòng khác.
Ba ngày sau, vợ nhà ảo thuật đã được mai táng giữa đông đảo công chúng. Những tấm lòng trắc ẩn đã phủ đầu hoa lên quan tài, và trong những người có thế lực ở thành phố đi đưa đám có cả ông Hêluy... Nhà ảo thuật quỵ xuống khi những mảng đất đầu tiên rơi trên quan tài. Ông Hêluy đứng cạnh anh đã đỡ anh lên và đưa về thành phố. Ông ở lại rất lâu bên cạnh người chồng bất hạnh đang rũ rượu, trơ trơ trước mọi lời an ủi, có ý muốn huỷ hoại cuộc sống của mình... Những ai đi qua căn phòng tang tóc ấy đều nghe thấy từng cơn khóc nức nở của người đàn ông đau khổ, hay những lời âu yếm thiết tha, dồn dập, và trả lời lại là tiếng ríu rít ngọt ngào của một đứa trẻ thơ... Giọng nói thảm thiết và âm điệu trong như tiếng bạc kia của đứa bé tươi cười, cả hai tạo ra một bản hợp tấu xé lòng người.
Chú thích:
(1) Walkyrie: nữ thần chiến tranh, thần thoại Na Uy, Thuỵ Điển.
(2) Nguyên văn: Fée – nàng tiên; vần đầu của Félicité: niềm hạnh phúc.
Sáng hôm ấy, ở khắp các góc phố trong thành phố X đều dán những tờ quảng cáo đỏ báo tin nhà ảo thuật trứ danh Ooclôpxki đã đến cùng các tiết mục kỳ diệu của anh. Một thiếu phụ đến từng nhà bán vé. Nàng rất đẹp. Bộ tóc vàng hung lộng lẫy, dáng dấp kiều diễm và quý phái, nhưng bộ mặt dịu dàng của nàng xanh, nhợt nhạt như xác chết – người ta thường nói thế và những lúc hiếm hoi nàng ngước cặp lông mi vàng óng lên, đôi mắt xám sẫm chất chứa vẻ êm dịu gần như thê thảm làm xúc động lòng người.
Nàng vào cả nhà ông Hêluy, ngôi nhà sang trọng nhất ở phố chợ.
- Thưa bà, – Hăngri, người đầy tớ ở tầng dưới gọi, – vợ người làm ảo thuật đến.
- Chị ta muốn gì? – Một giọng đàn bà nghiêm khắc hỏi.
- Chồng chị ấy biểu diễn ngày mai, chị ấy muốn mời bà mua một vé vào xem.
- Chúng ta là những tín đồ lương thiện, và cũng không có tiền để tiêu cho những trò hề ấy. Đuổi họ đi, Hăngri!
Người đầy tớ đóng cửa phòng lại. Bác gãi tai, nét mặt bối rối, vì người biểu diễn chắc đã nghe thấy hết. Nàng đứng sững sờ trước mặt bác một lúc: mặt nàng thoáng đỏ lên và một tiếng thở dài nặng nề từ trong ngực thốt ra... Ngay lúc ấy, một cánh cửa nhỏ trổ trên cửa lớn hé ra, có tiếng đàn ông khẽ hỏi mua một vé, vé đưa ra, một đồng êquy nhẹ đưa vào tay thiếu phụ. Trước khi nàng kịp ngước mắt lên, cánh cửa nhỏ đã đóng lại. Tấm rèm xanh rủ những nếp mờ che sau cửa kính.
Hăngri mở cửa và mỉm cười vui vẻ, người đàn bà đi ra với những bước chân ngập ngừng để tiếp tục con đường chông gai của mình.
Hôm sau, phòng khánh tiết ở thị sảnh chật ních người xem. Hăngri lọt vào giữa đám đống, phải chen chúc mới thoát ra được để đến gần chủ. Ông ngồi cạnh một người bạn là bác sĩ Buêơm trên khán đài, giữa những người có địa vị trong tỉnh.
Người xem tuôn đến cũng dễ hiểu. Chương trình hứa hẹn những tiết mục tuyệt diệu và tiết mục cuối cùng được viết như sau: “Bà Ooclôpxca sẽ xuất hiện trong vai Vankiri (1). Sáu người lính sẽ nổ súng vào bà, bằng một nhát kiếm, bà sẽ chém đứt ngang sáu viên đạn đang bay”.
Dân chúng ở X đến đây chủ yếu để nhìn thấy điều phi thường này. Người đàn bà trẻ và đẹp đã làm cho mọi người chú ý, ai nấy muốn thấy nét mặt của nàng sẽ như thế nào khi các nòng súng chĩa vào nàng... Nhà ảo thuật cũng thu hút được sự chú ý của công chúng bằng các trò nhanh tay. Anh là người mà các bà thường gọi là một nhân vật lý thú. Người vừa phải, mềm mại dong dỏng cao, anh có nét mặt đều đặn, tóc đen, hai mắt đầy tình cảm, cử chỉ lịch sự và cách nói tiếng Đức nhấn mạnh giọng càng làm cho anh thêm hấp dẫn. Nhưng mọi giá trị ấy đều bị quên ngay khi sáu người bồng súng do một viên đội chỉ huy bước vào. Cử toạ bỗng náo nhiệt. Có thể nói đây là tiếng ầm ĩ của các ngọn sóng vỗ vào đá. Rồi tiếp đến là sự lặng lẽ đột ngột như lo sợ.
Người Ba Lan tiến đến gần một cái bàn và đóng thuốc súng vào vỏ đạn trước mặt công chúng. Anh lấy búa nện lên từng viên đạn, để bằng tiếng động ấy, làm cho khán giả đang hồi hộp tin rằng đấy là những viên đạn thật. Rồi anh đưa cho mỗi người lính một viên và bảo họ nạp đạn.
Nhà ảo thuật giơ chuông lắc.
Một người đàn bà từ sau bức màn rộng bước ra. Nàng thong thả tiến lên dọc theo sân khấu và đến đứng trước mặt những người lính. Sự xuất hiện thật tuyệt diệu! Một chiếc mộc che trên cánh tay trái, tay phải nàng cầm kiếm. Chiếc áo dài trắng rủ thành nhiều nếp rộng xuống tận chân, chung quanh hông buộc các vảy bạc. Và tấm thân tuyệt đẹp được bảo vệ bằng chiếc áo giáp lóng lánh. Nhưng trang phục rực rỡ ấy so làm sao được với ánh vàng lóng lánh của bộ tóc luôn như sóng từ chiếc mũ sắt xuống tận gần gấu áo dài.
Khuôn mặt xanh xao và buồn rầu hướng về phía các họng súng gây chết chóc. Không một sợi lông mi rung động. Không thấy một xao động nào ở bộ áo bồng bềnh... Nàng đứng đấy như một pho tượng đá... Tiếng hô cuối cùng vang lên trong gian phòng lặng lẽ, sáu tiếng súng nổ cùng một loạt... Thanh kiếm chém vào không khí rít lên, và những nửa viên đạn rụng xuống sàn.
Mọi người còn thấy nàng Vankiri đứng bất động... Khói thuốc súng làm cho không thấy rõ nét mặt nàng và áo giáp của nàng như mờ đi qua đám mù... rồi bỗng nhiên nàng loạng choạng, chiếc mộc, thanh kiếm rơi loảng xoảng xuống đất. Nàng giơ tay phải ra như để tìm chỗ bám rồi ngã gục vào tay người chồng vừa chạy đến cùng tiếng kêu như xé lòng thốt lên: “Ôi, tôi trúng đạn...”. Anh ôm nàng ra phía sau bức màn, rồi như một người điên đang thịnh nộ lao đến chỗ mấy người lính.
Mấy người lính đã được lệnh dùng răng cắn rút đầu đạn khi nạp đạn và giữ lại ở miệng, tất cả phép màu là ở chỗ ấy. Tuy vậy vẫn có một người vốn là nông dân vụng về – nên rất lúng túng khi nhìn thấy đám đông và mất bình tĩnh đúng vào lúc hiểm. Khi năm người kia theo lệnh nhà ảo thuật lấy ngay đầu đạn ở miệng ra, thì anh ta hoảng hốt thấy mình chỉ nhả ra vài hạt thuốc súng.... Viên đạn của anh ta đã xuyên qua người đàn bà bất hạnh kia.
Thấy thế, người Ba Lan thất sắc vì đau đớn và thất vọng, mất bình tĩnh, đấm ngay vào mặt người vô ý thức mà trở thành tội phạm.
Ngay lúc ấy, gian phòng bỗng rối loạn hẳn lên. Nhiều bà ngất đi, nhiều tiếng hét lên gọi thầy thuốc. Bác sĩ Buêơm là người đầu tiên hiểu rõ sự việc đã có mặt ở sau bức màn, bên cạnh người đàn bà bị thương. Khi ông bước ra, mặt tái đi vì xúc động, ông nói nhỏ với Hêluy: “Người đàn bà diễm lệ thật đáng thương ấy sắp chết, không phương cứu chữa”.
Một giờ sau, vợ người làm ảo thuật đã nằm trên một chiếc giường ở khách sạn Liông. Người ta khiêng nàng đến đây trên một chiếc ghế xôpha, Hăngri là một trong mấy người khiêng.
Người đàn bà nằm bất động, hai mắt nhắm nghiền. Bộ tóc tuột xuống toả từng mảng rối tung trên gối và trên thành giường, tóc khoanh từng vòng trên tấm thảm sẫm màu... Người làm ảo thuật quỳ trước giường, bàn tay người bị thương đặt trên đầu anh đang gục xuống chăn.
- Fê (2) ngủ ư? – Nàng thì thầm và cố mở mắt ra.
Người làm ảo thuật ngẩng đầu lên:
- Phải, – anh khẽ thốt lên qua đôi môi như đang co lại vì đau đớn, – con gái người chủ nhà đem nó về phòng cô ấy, nó ngủ trên một chiếc giường trắng nhỏ... con chúng ta được chăm nom chu đáo, ở nơi có thể yên tâm. Mêta, kho báu dịu hiền của anh ạ!
Người đàn bà lộ vẻ đau đớn vô tả khi đưa mắt nhìn người chồng mắt đầy thất vọng.
- Giaxcô, em chết mất! – Nàng rên lên.
Người nghệ sĩ quỵ xuống thảm và quằn quại trong nỗi đau khổ tột cùng:
- Mêta, Mêta ơi, đừng bỏ anh! – Anh kêu lên – Em là ánh sáng trên con đường tối tăm của anh! Em là vị thiên thần tự găm vào trái tim mình những chiếc gai của cái nghề đáng nguyền rủa của anh, để anh khỏi vướng phải chúng. Anh làm thế nào mà sống được nếu em không ở bên anh, nếu anh mất đi sự che chở của đôi mắt cẩn mật của em, của trái tim đầy tình yêu khôn tả của em?
Anh khóc rất nhỏ.
Một nụ cười đau khổ nở trên môi người đang hấp hối. Nàng đang cố gắng nhấc đầu lên, anh luồn tay xuống đỡ và bàn tay phải anh áp mặt vợ vào ngực mình như điên dại.
- Giaxcô, bình tĩnh lại anh... hãy tỏ rõ là một người đàn ông! – Nàng rền rĩ.
Đầu nàng tuột xuống như bất tỉnh, nhưng đôi mắt đã gần dại đi của nàng lại mở, có thể nói rằng sự sống sắp tắt hẳn nhưng còn cố bám lấy cái vỏ bọc đã suy nhược. Đôi môi sắp biến thành cát bụi ấy còn phải trăng trối thêm, trái tim ấy chưa thể ngừng đập ngay để đem xuống lòng đất những nỗi bứt rứt của tấm lòng một người mẹ đau khổ khôn tả:
- Anh bất công đối với mình, Giaxcô ạ, – nàng nói sau một lúc im lặng để thu thập lại sức lực cuối cùng. – Anh đã làm cho em thành một người sung sướng nhất trong các người vợ. Ôi, Giaxcô. Nỗi lo âu về Fê đang hành hạ giờ phút cuối cùng của em. Em xin anh một hy sinh rất lớn, Giaxcô ạ... Anh hãy xa Fê... hãy giao con cho những người giản dị và nhân hậu chăm nom.... để cho nó lớn lên trong một gia đình yên tĩnh... hãy hứa với em điều ấy đi, chồng yêu quý của em.
Người đàn ông ấy đã hứa bằng một giọng nghẹn ngào nước mắt.
Khi rạng động lọt qua cửa sổ rắc những bông hồn ánh sáng lên thi thể đẹp đẽ của người đàn bà này, nét mặt nàng đã biến đổi, không còn mang một dấu vết kinh hoàng nào của lúc cuối cùng. Ooclôpxki lăn vào cái thi thể lạnh giá ấy, phải nhiều người mới gỡ anh ra được để lôi sang phòng khác.
Ba ngày sau, vợ nhà ảo thuật đã được mai táng giữa đông đảo công chúng. Những tấm lòng trắc ẩn đã phủ đầu hoa lên quan tài, và trong những người có thế lực ở thành phố đi đưa đám có cả ông Hêluy... Nhà ảo thuật quỵ xuống khi những mảng đất đầu tiên rơi trên quan tài. Ông Hêluy đứng cạnh anh đã đỡ anh lên và đưa về thành phố. Ông ở lại rất lâu bên cạnh người chồng bất hạnh đang rũ rượu, trơ trơ trước mọi lời an ủi, có ý muốn huỷ hoại cuộc sống của mình... Những ai đi qua căn phòng tang tóc ấy đều nghe thấy từng cơn khóc nức nở của người đàn ông đau khổ, hay những lời âu yếm thiết tha, dồn dập, và trả lời lại là tiếng ríu rít ngọt ngào của một đứa trẻ thơ... Giọng nói thảm thiết và âm điệu trong như tiếng bạc kia của đứa bé tươi cười, cả hai tạo ra một bản hợp tấu xé lòng người.
Chú thích:
(1) Walkyrie: nữ thần chiến tranh, thần thoại Na Uy, Thuỵ Điển.
(2) Nguyên văn: Fée – nàng tiên; vần đầu của Félicité: niềm hạnh phúc.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook