Bách Quỷ Ký Sự
-
4: Tích 4: Thuồng Luồng
TÍCH 4: Thuồng Luồng
(Trích từ nhiều nguồn)
“Trong văn hóa dân gian Việt Nam, có rất nhiều sinh vật/quái vật nổi tiếng nhưng trong đó, không mấy loài có thể so bì với thuồng luồng về độ xa xưa cũng như danh tiếng về sức mạnh.
Theo đó, người xưa mô tả thuồng luồng là loài vật khổng lồ, có sừng như rồng, có thân hình giống rắn nhưng to hơn cả ngàn lần. Chúng sinh sống tại các vùng nước lớn, thường rình rập rồi bất ngờ nhào lên kéo người xuống nước. Từ đó, thuồng luồng trở thành nỗi ám ảnh không chỉ đối với những người đi biển mà còn khiến nhiều người dân run lên sợ hãi mỗi khi nghe chuyện kể về chúng. Nhưng bên cạnh đó, cũng có truyền thuyết cho rằng loài quái vật này đã có linh tính, chúng sẽ chỉ làm hại kẻ ác, còn đối với những người lương thiện, thuồng luồng sẽ dẫn đường chỉ lối đến những nơi có vàng bạc châu báu.
Thuồng luồng là loài sinh vật mang tính thần thoại nhưng chúng cũng không ít lần xuất hiện trong các tài liệu lịch sử. Lần đầu tiên có thể kể đến có lẽ là vào thời đại của vua Hùng, tức là hàng ngàn năm trước.
Theo Đại Việt Sử ký toàn thư, phần Ngoại kỷ – Hồng Bàng, An Dương Vương, có đoạn:
“…Vua các đời đều gọi là Hùng Vương. Bấy giờ dân ở rừng núi thấy ở sông ngòi khe suối đều có tôm cá, nên rủ nhau đi bắt cá để ăn, thường bị thuồng luồng làm hại, đến thưa với vua.
Vua nói: “Người man ở núi khác với các loài thủy tộc; các thủy tộc ấy ưa cùng loài mà ghét khác loài, cho nên mới bị chúng làm hại. Rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái ở mình. Từ đấy thuồng luồng trông thấy không cắn hại nữa. Tục vẽ mình của người Bách Việt có lẽ bắt đầu từ đấy”.
Như vậy có thể thấy, dường như tập tục xăm mình của người Việt thời xưa xuất phát từ nỗi sợ hãi đối với thuồng luồng mà ra. Những hình xăm này chính là vũ khí để họ vượt qua, chiến thắng được nỗi ám ảnh các thế lực vô hình.
Cũng trong Đại Việt Sử ký toàn thư, bản kỷ 6, nhà Trần (1294-1329), có ghi:
“Thượng hoàng có lần ngự cung Trùng Quang, vua đến chầu, quốc công Quốc Tuấn đi theo. Thượng hoàng nói:
“Nhà ta vốn là người hạ lưu (thủy tổ người Hiền Khánh), đời đời chuộng dũng cảm, thường xăm hình rồng vào đùi. Nếp nhà theo nghề võ, nên xăm rồng vào đùi để tỏ là không quên gốc”.
…
…Quốc phụ có xăm hình rồng ở đùi, mà về sau nối ngôi không xăm ở đùi nữa là bắt đầu từ Anh Tông.
Lại hồi quốc sơ, quân sĩ đều xăm hình rồng ở bụng, ở lưng và hai bắp đùi, gọi là “thái long” (rồng hoa).Vì khách buôn người Tống thấy dân Việt ta xăm hình rồng, lỡ gặp gió bão thuyền đắm, thuồng luồng không dám phạm tới, cho nên gọi là “thái long”.
Từ đó, có thể thấy, việc xăm hình để “khắc chế” thuồng luồng nói riêng hay những tai ác từ sông nước nói chung được kế thừa và công nhận trong hơn 1000 năm, mãi đến thời vua Trần Anh Tông (1293-1314) mới chấm dứt.
Ở một góc nhìn khác, chúng ta có thể thấy rằng, tục xăm mình trên tồn tại là do nỗi sợ sông nước mang tính vô thức, mà cụ thể ở đây là thuồng luồng của người Việt xưa. Và tục lệ đó cũng chấm dứt khi mà ở triều Trần, sức mạnh thủy quân của chúng ta đạt đến đỉnh cao.
Ngoài ra, không chỉ xuất hiện nhiều trong các tài liệu cổ, thuồng luồng còn được nhắc đến trong vô số các thần thoại, các câu chuyện dân gian.
Trích từ nhiều nguồn, theo nhiều thần phả, có Nguyễn Thị Hạo, quê ở Đan Phượng, mới chớm tuổi trăng tròn đã mang sắc đẹp chim sa cá lặn. Nàng may mắn lọt vào mắt xanh của vua Lý Thánh Tông, tuy nhiên sau khi vào cung suốt 4 năm liền vẫn không có con.
Một ngày nọ, Nguyễn Thị Hạo cùng thị nữ ra tắm ở Hồ Tây thì bất ngờ có một con thuồng luồng to lớn xuất hiện quấn chặt lấy bà rồi biến mất. Còn đêm đó, nhà vua được một người báo mộng 3 năm sau sẽ có giặc ngoại xâm nên thủy thần được lệnh đầu thai làm con vua để đánh giặc giữ nước.
Bà Nguyễn Thị Hạo hoài thai đến 13 tháng mới sinh, cậu bé vừa ra đời đã có 28 vết hằn trên lưng hệt như vẩy rồng, được đặt tên là Hoàng Lang. Và quả đúng 3 năm sau khi nhà vua nằm mộng, đất nước bị giặc Vĩnh Trinh hoành hành ở phía Bắc. Hoàng tử Hoàng Lang nghe tin liền lắc mạnh người, hóa thành nam tử cường tráng rồi xin vua cha cấp voi chiến cùng 5.000 quân đi đánh giặc. Mấy tháng sau, chiến thắng trở về, Hoàng Lang không nối ngôi vua mà xin được trở về thủy cung, chàng hóa thành thuồng luồng lớn rồi biến mất tại Hồ Tây.
Thần thoại này càng củng cố thêm niềm tin của dân gian về thuồng luồng đã nói ở phần đầu. Đó là những sinh vật mạnh mẽ và có vô số quyền năng, đặc biệt đã sở hữu linh tính, biết phân biệt đúng sai, công bằng đối với người tốt, kẻ xấu chứ không phải chỉ là những con quái vật khổng lồ, đáng sợ.
Ngoài ra, còn một câu chuyện về thuồng luồng liên quan đến người thấy giáo vĩ đại trong lịch sử dân tộc – Chu Văn An.
Khi danh sư Chu Văn An mở trường dạy học ở quê nhà, có một học sinh rất chăm chỉ, ngày ngày đến sớm nghe giảng, nhưng tung tích lại vô cùng bí ẩn. Cụ Chu Văn An bèn cho người theo dõi, thấy rằng chàng học trò nọ cứ đến khu đầm Đại thì biến mất nên mới biết là thủy thần.
Đến năm nọ, cả nước gặp hạn hán lớn, khắp nơi khô cằn, nắng gắt, người dân không thể thu hoạch được hoa màu, nhiều nơi thiếu nước uống trầm trọng. Đứng trước tình thế hiểm nghèo như vậy, thầy Chu Văn An xót thương người dân nên đã mở lời nhờ cậy người học trò bí ẩn kia.
Chàng nho sinh ngần ngại 1 lúc rồi thưa lại:
” Luật trời rất nghiêm nhưng lời thầy bảo cũng rất trọng. Trái ý trời không thể tránh khỏi tội nhưng hủy thân mình để hoàn thành điều nhân, lời dạy của thánh nhân từ xưa không thể bỏ, nay sao dám chối từ…
Con vâng lời thầy là trái lệnh Thiên đình, nhưng con cứ làm để giúp dân. Mai kia nếu có chuyện gì không hay, mong thầy chu toàn cho”.
Với quyền năng của mình, người học trò nọ đã hô mưa gọi gió, cứu mạng bá tánh khắp một vùng rộng lớn, tuy nhiên qua đến hôm sau, người ta thấy xác một con thuồng luồng nổi lên giữa hồ.
Cụ Chu Văn An biết là học trò mình vì nhân dân phạm tội tày trời nên vô cùng thương tiếc và làm lễ an táng trịnh trọng. ”
319899260_1149893155668454_2868025090578513409_n
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook