Ám Vệ Công Lược
-
Chương 52
*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Tư Đồ Phong dẫn ám vệ Cửu đến phía Đông Âm Bình trại, nơi này kề sát con suối lởm chởm đá tảng, không có bóng người. Dọc theo dòng suối là con đường nhỏ quanh co, uốn lượn ra ngoài trại, hòa tan trong sương khói trắng xóa và núi non trùng điệp. Tư Đồ Phong lệnh ám vệ Cửu đứng bên bờ canh chừng rồi bước xuống khe suối đóng băng lạnh cóng, dùng vỏ kiếm tùy tiện gõ gõ đá tảng các nơi, từ xa nhìn lại, trông y rất giống một thằng nhóc bướng bỉnh buồn chán chạy ra nghịch nước.
Nơi này ở đầu gió, gió Bắc buốt giá như dao cắt, xua tan mê hồn hương. Ám vệ Cửu giật mình, tạm thời nhận ra diện mạo Tư Đồ Phong, nhưng đầu óc vẫn rối tinh rối mù, không rõ tình hình hỏi, “Tam công tử… Thuộc hạ làm gì bây giờ?”
Tư Đồ Phong hắt hơi một cái, “Đi tìm đường đến hồ Bạch Long.”
Ám vệ Cửu vô thức dõi mắt trông xa, phân biệt phương hướng nhờ cành cây khô, chắp tay bẩm, “Hai bên là nhánh núi Long Môn Sơn và Dân Sơn.” Hắn nhìn sang con đường mòn nhỏ như ruột dê, “Trên địa đồ Kiếm Châu thì lối rẽ Âm Bình nối thẳng tới hồ Bạch Long. Hồ Bạch Long tại Thục Hán còn gọi là Bạch Thủy, chính là đầu nguồn của con suối này.” Dứt lời thì lội xuống suối, cởi áo khoác phủ lên vai Tư Đồ Phong… Chợt thấy không đúng.
Tư Đồ Phong dùng chuôi kiếm móc áo khoác, ném lại cho ám vệ Cửu, lúng túng nói, “Tiểu gia chỉ ngứa mũi! Chẳng biết cô nương nhà ai nhắc đến. Mấy cái trò ngươi chăm sóc Tư Đồ Nhã đừng có dùng với ta.” Y dịu giọng, khoanh tay hất hàm chỉ đường mòn ruột dê, “Âm Bình trại là thành lũy bên ngoài Bạch Long Tứ Thập Trại, là con đường mà sơn phỉ các trại tất phải đi qua. Nhưng nhìn đường mòn kia xem, tuyết phủ dày như thế có giống được qua lại thường xuyên không?”
Ám vệ Cửu âm thầm quan sát, đúng vậy.
Tư Đồ Phong cười nói, “Ám vệ xuất sắc nhất nhà ta mà tí xíu đó cũng chẳng nhận ra! Đầu ngươi chỉ mọc lên cho đẹp à?”
“…” Ám vệ Cửu hổ thẹn cúi đầu, nhất thời cấp bách không suy nghĩ cẩn thận, chẳng hiểu sao tiểu chủ nhân của hắn lại biến thành Tam công tử.
Tư Đồ Phong dựa vào tảng đá, vung mũi kiếm chống lên gốc đá, “Thực ra mấy ngày nay ta chờ đợi để tóm cái gã sơn tặc họ Thẩm nọ, cạo xương lóc da bắt hắn khai báo tung tích bình Cửu Long, tiện thể trà trộn vào Âm Bình trại, đi qua con đường nhỏ này. Kết quả là ngọn núi nọ chia ra vài mươi con đường, đường nào cũng nằm ngay bên suối, lòng và lòng vòng như gặp quỷ! Cũng may tiểu gia phúc lớn mạng lớn, cuối cùng vẫn quay về Âm Bình trại.”
Ám vệ Cửu suy nghĩ một lát rồi nói, “Sao Tam công tử xác định được dòng suối này có đường thông tới hồ Bạch Long?”
Tư Đồ Phong cảm giác lần này gặp lại, ám vệ Cửu ngu đi không ít, vất vả nén giận, kiên nhẫn đáp, “Gần đây ta thấy mấy tên sơn tặc đi lòng vòng quanh tảng đá này rồi biến mất tăm.”
“Nếu vậy thì dưới chân tảng đá có cơ quan, không đóng băng được.” Ám vệ Cửu lội tới chỗ băng nứt, biết sai phải sửa, suy tư nghiên cứu, “Con đường bí mật không thích hợp ngâm dưới nước, lối vào phải đặt bên cạnh dòng nước.” Hắn quan sát tảng đá, “Tảng đá này chôn sâu vào đất, ngăn cản dòng nước nên khó lay động.”
Tư Đồ Phong hiểu ra, không khỏi vỗ lưng khen ám vệ Cửu, “Đúng là có mắng có khôn, sao còn chưa mở đường thay tiểu gia!”
Một chưởng này vỗ vào đuôi cột sống của ám vệ Cửu, ám vệ Cửu tức khắc vã mồ hôi lạnh, lại chẳng biết sao trong bụng chợt đau âm ỉ, càng thẳng lưng lấy sức đẩy tảng đá, bụng càng đau dữ dội. Hắn cẩn thận cảm nhận, hình như có vật gì đó khảm vào trong thịt, thả lỏng người thì vật nọ lại như tách ra, chậm rãi rời khỏi vách tường thịt của hắn.
Cảm giác này cực kỳ sởn gai ốc, vòng đi vòng lại rất khó chịu. Cuối cùng ám vệ Cửu mới nhớ ra viên ngọc Tư Đồ Nhã đặt vào trong hắn, hiện giờ viên ngọc đã trượt vào rất sâu vì đêm qua hắn dùng võ, chỉ sợ khó lấy ra. Nghĩ nhiều vô ích, hắn lại lấy sức đẩy tảng đá, bụng quặn thắt, đường vân trên viên ngọc ấm áp lại khảm vào trong thịt, cực kỳ khó chịu, hắn không khỏi khẽ kêu, “Tiểu chủ nhân…”
Đúng lúc hắn dùng hết sức lực đẩy tảng đá, tiếng sáo lảnh lót cất lên. Có lẽ bởi không gian vừa kín vừa trống trải, âm thanh này vô cùng rõ rệt, mạnh mẽ như đại bàng cất tiếng, sát khí bộc phát, rồi đột ngột chuyển sang du dương mềm mại, triền miên sầu thảm như tiếng thở than u uất, xa xăm mà ngấm vào lòng.
Ánh mắt ám vệ Cửu lóe lên, chợt nhận ra đây là ‘Tập Hiền Tân’ đã được nghe trên xe ngựa, có điều lúc đầu nhẹ nhàng êm ả, càng về sau lại càng phức tạp rối ren, thấp thỏm không yên, dường như đang thúc giục hắn nhanh nhanh gặp lại. Tiểu chủ nhân của hắn đang ở đầu nguồn!
“Tránh ra!” Tư Đồ Phong gào to.
Ám vệ Cửu nghiêng người né tránh. Tư Đồ Phong tức khắc giữ thăng bằng hai tay, tay trái tạo kiếm quyết*, tay phải vận sức vung kiếm, thình lình liếc mắt nhìn ám vệ Cửu, điều phối nội tức phẫn nộ nói, “Muốn chết hả, cút xa khỏi tiểu gia!”
*Kiếm quyết là thủ thế này:
Ám vệ Cửu tuân lệnh rút lui tới mười trượng cách xa bờ suối, chỉ thấy tư thế cầm kiếm của Tư Đồ Phong khá kỳ lạ, dùng hai ngón tay trái đang tạo kiếm quyết kẹp lấy mũi kiếm nằm ngang bên tay phải.
Ban đầu, tác dụng của kiếm quyết là ngưng tụ kiếm khí và điều chỉnh nội lực. Nếu so chiêu quá gần thì tay phải cầm kiếm dài ba thước không kịp biến hóa quay về, thông thường cũng dùng ngón tay trái bấm tay niệm chú thay cho đoản kiếm, công kích yếu điểm của kẻ địch, bù lại sơ hở trong chớp mắt này. Nhưng dùng kiếm quyết tay trái điều khiển trường kiếm ở tay phải, chớ nói kiếm pháp Kiếm Môn hoàn toàn không có ghi chép, thì ám vệ Cửu sống hơn hai mươi năm cũng mới trông thấy lần đầu.
Tư Đồ Phong tập trung chia nội lực thành hai phần, phân phối đều sang hai tay. Trong phút chốc, tay trái tay phải nắm chuôi kiếm và mũi kiếm đồng thời kéo giãn, giống như kẻ ngốc đang quyết chiến với chính mình. Y mặc sức vung tay trái, gân xanh trên cổ tay cuồn cuộn nổi lên, hai ngón tay kẹp mũi kiếm mạnh mẽ quăng ra sau, tựa như đang bắn một cái nỏ vô hình cực lớn mà người thường không thể kéo.
Ám vệ Cửu nhìn không chớp mắt, chỉ thấy mũi kiếm nhọn xé gió, bật về phía sau theo một góc độ không thể tưởng tượng.
Tư Đồ Phong tuyên thệ xẻ đôi trời đất, vung kiếm lên chém một nhát.
Ám vệ Cửu chăm chú nhìn – Lại chưa thấy ánh kiếm. Tới lúc Tư Đồ Phong nhét kiếm vào vỏ, lắc lắc cổ, thì kiếm khí trùng trùng điệp điệp mới cuồn cuộn ùa tới như cuồng phong trên đất, lớp băng trải dài trên mặt suối vỡ nát, vụn băng lấp lánh đầy trời. Tảng đá nọ rung chuyển, chậm rãi tách làm đôi từ vết chém, một nửa chìm xuống, một nửa vẫn nhô trên mặt nước, rung rung tạo thành từng vòng bột mịn đục ngầu.
Ám vệ Cửu chợt nhận ra mấu chốt trong đó, tay trái tay phải của Tư Đồ Phong không phân cao thấp, mà đồng thời rót hai luồng kiếm khí vào bách luyện thép (Lưỡi kiếm bằng thép được rèn đi rèn lại rất nhiều lần để loại bỏ tạp chất và tăng cường tính năng), lại dựa vào sức bật như kéo cung, dùng tốc độ người thường khó có thể phát giác bắn ra đường kiếm, vừa nhanh vừa mạnh. Nhưng chiêu kiếm này tuy sức mạnh kinh người, khi tung ra lại khá mất sức, không thích hợp đối phó với cao thủ gian trá và khó áp sát như ‘Ân Vô Hận’.
Có lẽ Tư Đồ Phong cho rằng mình có thể dùng kiếm xẻ đá là chuyện đương nhiên, nên cũng không đợi ám vệ Cửu, khẩn cấp nhảy vào con đường bí mật giữa tảng đá.
Ám vệ Cửu không khỏi chấn động, quên mất cơn đau trong bụng, chạy theo mà rằng, “Tam công tử, vừa nãy là chiêu gì?”
Tư Đồ Phong thường xuyên nghĩ ra các chiêu kiếm đa dạng, chưa từng có ý định đặt tên cho chúng, đang định đáp bừa là “Chém đứt Tư Đồ Nhã” thì lại thấy không đủ khí phái. Y chợt nhớ lúc rời khỏi Đan Sơn trấn, Tư Đồ Nhã vờ vịt khuyên nhủ ‘Sủy nhi duệ chi, bất khả trường bảo’, ngụ ý là nếu quá sắc sảo, một ngày nào đó sẽ tự làm mình bị thương. Nghĩ vậy, y châm chọc đáp, “Chiêu này của tiểu gia gọi là ‘Sủy Nhi Duệ Chi’!”
Cách hai người khoảng nửa dặm xa, trong địa lao sâu một trượng, Long Tích Dung bịt tai định hô ngừng lại, công tử áo trắng trước mặt nàng bề ngoài có vẻ học cao hiểu rộng, thanh tú lịch sự, sao thổi sáo lại the thé khó nghe tới mức này! Nào ngờ Tư Đồ Nhã đổi động tác ngón tay, cùng một cây sáo trúc, giai điệu thình lình biến chuyển một trời một vực, vui vẻ rộn ràng, lại mang theo quý khí vững vàng của Thiên gia hoàng tộc.
Long Tích Dung nghe đến say mê, thấp thoáng còn như trông thấy Hoàng Thành Kim Lăng ở ngay trước mắt, mái ngói lưu ly trùng điệp nối đuôi nhau, ngũ tích lục thú lặng im ngắm nhìn nền thảm Ba Tư đỏ thắm, vũ nữ ca múa xoay tròn trước thềm cung, vẻ như chỉ ngừng khi sức cùng lực kiệt.
Bản án lạnh lùng của Hoàng đế, chẳng chút nể tình xuyên qua giai điệu du dương, “Lăng ái khanh, điệu múa xoay vòng này của Hoàng hậu chẳng bằng một phần vạn của khanh.”
Cận thần khom lưng đáp, “Thứ cho lão thần cả gan nói thẳng, kỹ nữ thời cổ còn biết xuống kiệu để bảo vệ Quân uy, bây giờ Hoàng hậu nương nương có cung điện bậc nhất, mẫu nghi thiên hạ, vậy mà lại tùy tiện làm bậy, tranh giành mỹ danh Phi Yến với tiểu nữ tản mạn dân gian, lão thần thật sự xấu hổ không chịu nổi…”
Hoàng đế nửa đùa nửa thật nói, “Theo ý trẫm, Đông Thi học đòi nhăn mặt (Dựa theo tích: Nàng Tây Thi xinh đẹp mỗi lần nhăn mặt vì cơn bệnh bẩm sinh giày vò thì lại càng xinh đẹp hơn. Nàng Đông Thi xấu xí thấy thế nên cũng bắt chước làm điệu bộ nhăn mặt như Tây Thi, không ngờ lại càng xấu xí hơn, ai trông thấy nàng cũng vội vã lánh xa – ý nói bắt chước vụng về) cũng khá thú vị.”
Long Tích Dung chua chát, mẫu hậu nàng là mẫu nghi thiên hạ, nhưng cũng chỉ là một nữ tử tầm thường muốn níu kéo trái tim Hoàng đế. Nào ngờ hành động này biến khéo thành vụng, ngược lại còn cổ vũ ý định nạp phi của Hoàng đế. Lăng Phi trường tụ thiện vũ (Tay áo dài thì khiêu vũ đẹp – Ý chỉ có sẵn hậu thuẫn thì dễ thành công, tương tự với câu ‘Mạnh vì gạo, bạo vì tiền) nọ vào cung lại thình lình nổi tiếng, “Ta là người giang hồ, không quen với quy củ triều đình các ngươi, ta không cần biết ngươi là Hoàng đế hay là thứ dân, ngươi thân là nam nhân bảy thước ngang tàng lại không biết giữ mình trong sạch, mặc cho vô số người chia sẻ ngươi, vuốt ve ngươi, như vậy khác nào lấy sắc dụ người, ngươi không uất ức sao?”
Ngoài cửa bên của tẩm cung, thái giám vội vàng kêu, “Hoàng Thượng, đã đến giờ!” Vị phi tử mới tới này ở trên long sàng đã quá lâu.
Hoàng Thượng không vội nhưng thái giám vội. Cửu ngũ chí tôn mà thở mạnh cũng không dám, Lăng Phi ném trâm cài, ghim mũ của thái giám vào tường đá bên ngoài cửa sổ, “Cút!”
“Thái giám mà dám chõ mũi vào chuyện phòng the của ngươi, đúng là chẳng khác nào tú bà trong dân gian. Ngươi mà là Hoàng đế à? Đồn ra lại khiến người trong thiên hạ nhạo báng phu quân ta!”
Hoàng đế ngượng ngùng nói, “Đây là quy định của Thái Tổ…”
Lăng Phi sẵng giọng, “Quy định của Thái Tổ có một điều là không cho phép thái giám nắm quyền cao, thái giám này can thiệp vào chuyện phòng the, cả long chủng cũng dựa vào việc chúng nhận được bao nhiêu hối lộ, chẳng còn ai trong cung oai phong hơn chúng, ngươi có phải nam nhi nữa không?”
Hoàng đế mặt mũi ỉu xìu, “… Trẫm mới kế vị ba năm, căn cơ chưa ổn, nhiều việc trong cung vẫn khó làm chủ.”
Lăng Phi khích lệ, “Trên đời không có việc gì khó. Hiện nay đã có các nghĩa sĩ giang hồ từ Tây Vực xa xôi vượt ngàn dạm tới, nguyện dốc sức vì Hoàng Thượng. Họ võ công cao, lại rất nghĩa khí, cực kỳ chướng mắt lũ gian thần nịnh bợ. Hoàng Thượng chỉ cần ném mấy lượng bạc khen thưởng, đám nghĩa sĩ này sẽ không biến sắc thay Hoàng Thượng diệt cỏ tận gốc. Có câu, vua nào thần nấy, Hoàng Thượng nên nhanh chóng bồi dưỡng trung thần, diệt trừ phản nghịch để tránh cường chi nhược cán (cành cây lớn mạnh, thân cây yếu ớt). Mà trong triều đã có cha ta dẹp tan nghị luận, Hoàng Thượng còn do dự cái gì? Tay sai cầm quyền, ngoại thích lộng quyền, dân chúng lầm than.”
Hoàng đế lã chã rơi lệ, “Điệu ‘Nhất Hộc Trân Châu’ của Hoàng hậu bi thương tới vô cùng, có phải trẫm đã phụ bạc nàng ấy, làm sai chuyện gì hay không?” (*Hộc là dụng cụ để đo dung tích thời xưa, dung lượng bằng 10 đấu, sau đổi thành 5 đấu)
Lăng Phi cười nhạt, “Đó là bắt nguồn từ sự tích Mai phi tranh giành tình cảm với Dương Quý Phi thời Đường. Hoàng hậu nương nương muốn nhắc nhở Hoàng Thượng, nếu Hoàng Thượng có mới nới cũ giống Đường Huyền Tông thì một ngày nào đó sẽ bị phản tặc đuổi giết, phải trốn Đông trốn Tây, tè ra quần, cuối cùng phải ban chết cho thần thiếp, rơi vào tình cảnh cô đơn chiếc bóng, buồn bực mà chết!”
Long Tích Dung vẫn nhớ như in hàng chữ nhỏ rất khó nhìn trong ‘Khởi Cư Chú’ của tiên đế: Hoàng hậu ghen tị thất đức, ba năm không có con nối dõi, không đảm đương được chức trách, giáng xuống thành Phi.
Tiếng sáo ngừng, Giáo chúng tiến lên ghé tai báo với Long Tích Dung, tất cả đã chuẩn bị xong. Long Tích Dung xốc lại tinh thần, giơ tay ra hiệu cho các huynh đệ trong trại ùa vào, dẫn các công tử trúng mê hồn hương mỗi người mỗi vẻ ra khỏi địa lao, đi vào một đường hầm bí mật quanh co sâu thẳm.
Tư Đồ Phong dẫn ám vệ Cửu đến phía Đông Âm Bình trại, nơi này kề sát con suối lởm chởm đá tảng, không có bóng người. Dọc theo dòng suối là con đường nhỏ quanh co, uốn lượn ra ngoài trại, hòa tan trong sương khói trắng xóa và núi non trùng điệp. Tư Đồ Phong lệnh ám vệ Cửu đứng bên bờ canh chừng rồi bước xuống khe suối đóng băng lạnh cóng, dùng vỏ kiếm tùy tiện gõ gõ đá tảng các nơi, từ xa nhìn lại, trông y rất giống một thằng nhóc bướng bỉnh buồn chán chạy ra nghịch nước.
Nơi này ở đầu gió, gió Bắc buốt giá như dao cắt, xua tan mê hồn hương. Ám vệ Cửu giật mình, tạm thời nhận ra diện mạo Tư Đồ Phong, nhưng đầu óc vẫn rối tinh rối mù, không rõ tình hình hỏi, “Tam công tử… Thuộc hạ làm gì bây giờ?”
Tư Đồ Phong hắt hơi một cái, “Đi tìm đường đến hồ Bạch Long.”
Ám vệ Cửu vô thức dõi mắt trông xa, phân biệt phương hướng nhờ cành cây khô, chắp tay bẩm, “Hai bên là nhánh núi Long Môn Sơn và Dân Sơn.” Hắn nhìn sang con đường mòn nhỏ như ruột dê, “Trên địa đồ Kiếm Châu thì lối rẽ Âm Bình nối thẳng tới hồ Bạch Long. Hồ Bạch Long tại Thục Hán còn gọi là Bạch Thủy, chính là đầu nguồn của con suối này.” Dứt lời thì lội xuống suối, cởi áo khoác phủ lên vai Tư Đồ Phong… Chợt thấy không đúng.
Tư Đồ Phong dùng chuôi kiếm móc áo khoác, ném lại cho ám vệ Cửu, lúng túng nói, “Tiểu gia chỉ ngứa mũi! Chẳng biết cô nương nhà ai nhắc đến. Mấy cái trò ngươi chăm sóc Tư Đồ Nhã đừng có dùng với ta.” Y dịu giọng, khoanh tay hất hàm chỉ đường mòn ruột dê, “Âm Bình trại là thành lũy bên ngoài Bạch Long Tứ Thập Trại, là con đường mà sơn phỉ các trại tất phải đi qua. Nhưng nhìn đường mòn kia xem, tuyết phủ dày như thế có giống được qua lại thường xuyên không?”
Ám vệ Cửu âm thầm quan sát, đúng vậy.
Tư Đồ Phong cười nói, “Ám vệ xuất sắc nhất nhà ta mà tí xíu đó cũng chẳng nhận ra! Đầu ngươi chỉ mọc lên cho đẹp à?”
“…” Ám vệ Cửu hổ thẹn cúi đầu, nhất thời cấp bách không suy nghĩ cẩn thận, chẳng hiểu sao tiểu chủ nhân của hắn lại biến thành Tam công tử.
Tư Đồ Phong dựa vào tảng đá, vung mũi kiếm chống lên gốc đá, “Thực ra mấy ngày nay ta chờ đợi để tóm cái gã sơn tặc họ Thẩm nọ, cạo xương lóc da bắt hắn khai báo tung tích bình Cửu Long, tiện thể trà trộn vào Âm Bình trại, đi qua con đường nhỏ này. Kết quả là ngọn núi nọ chia ra vài mươi con đường, đường nào cũng nằm ngay bên suối, lòng và lòng vòng như gặp quỷ! Cũng may tiểu gia phúc lớn mạng lớn, cuối cùng vẫn quay về Âm Bình trại.”
Ám vệ Cửu suy nghĩ một lát rồi nói, “Sao Tam công tử xác định được dòng suối này có đường thông tới hồ Bạch Long?”
Tư Đồ Phong cảm giác lần này gặp lại, ám vệ Cửu ngu đi không ít, vất vả nén giận, kiên nhẫn đáp, “Gần đây ta thấy mấy tên sơn tặc đi lòng vòng quanh tảng đá này rồi biến mất tăm.”
“Nếu vậy thì dưới chân tảng đá có cơ quan, không đóng băng được.” Ám vệ Cửu lội tới chỗ băng nứt, biết sai phải sửa, suy tư nghiên cứu, “Con đường bí mật không thích hợp ngâm dưới nước, lối vào phải đặt bên cạnh dòng nước.” Hắn quan sát tảng đá, “Tảng đá này chôn sâu vào đất, ngăn cản dòng nước nên khó lay động.”
Tư Đồ Phong hiểu ra, không khỏi vỗ lưng khen ám vệ Cửu, “Đúng là có mắng có khôn, sao còn chưa mở đường thay tiểu gia!”
Một chưởng này vỗ vào đuôi cột sống của ám vệ Cửu, ám vệ Cửu tức khắc vã mồ hôi lạnh, lại chẳng biết sao trong bụng chợt đau âm ỉ, càng thẳng lưng lấy sức đẩy tảng đá, bụng càng đau dữ dội. Hắn cẩn thận cảm nhận, hình như có vật gì đó khảm vào trong thịt, thả lỏng người thì vật nọ lại như tách ra, chậm rãi rời khỏi vách tường thịt của hắn.
Cảm giác này cực kỳ sởn gai ốc, vòng đi vòng lại rất khó chịu. Cuối cùng ám vệ Cửu mới nhớ ra viên ngọc Tư Đồ Nhã đặt vào trong hắn, hiện giờ viên ngọc đã trượt vào rất sâu vì đêm qua hắn dùng võ, chỉ sợ khó lấy ra. Nghĩ nhiều vô ích, hắn lại lấy sức đẩy tảng đá, bụng quặn thắt, đường vân trên viên ngọc ấm áp lại khảm vào trong thịt, cực kỳ khó chịu, hắn không khỏi khẽ kêu, “Tiểu chủ nhân…”
Đúng lúc hắn dùng hết sức lực đẩy tảng đá, tiếng sáo lảnh lót cất lên. Có lẽ bởi không gian vừa kín vừa trống trải, âm thanh này vô cùng rõ rệt, mạnh mẽ như đại bàng cất tiếng, sát khí bộc phát, rồi đột ngột chuyển sang du dương mềm mại, triền miên sầu thảm như tiếng thở than u uất, xa xăm mà ngấm vào lòng.
Ánh mắt ám vệ Cửu lóe lên, chợt nhận ra đây là ‘Tập Hiền Tân’ đã được nghe trên xe ngựa, có điều lúc đầu nhẹ nhàng êm ả, càng về sau lại càng phức tạp rối ren, thấp thỏm không yên, dường như đang thúc giục hắn nhanh nhanh gặp lại. Tiểu chủ nhân của hắn đang ở đầu nguồn!
“Tránh ra!” Tư Đồ Phong gào to.
Ám vệ Cửu nghiêng người né tránh. Tư Đồ Phong tức khắc giữ thăng bằng hai tay, tay trái tạo kiếm quyết*, tay phải vận sức vung kiếm, thình lình liếc mắt nhìn ám vệ Cửu, điều phối nội tức phẫn nộ nói, “Muốn chết hả, cút xa khỏi tiểu gia!”
*Kiếm quyết là thủ thế này:
Ám vệ Cửu tuân lệnh rút lui tới mười trượng cách xa bờ suối, chỉ thấy tư thế cầm kiếm của Tư Đồ Phong khá kỳ lạ, dùng hai ngón tay trái đang tạo kiếm quyết kẹp lấy mũi kiếm nằm ngang bên tay phải.
Ban đầu, tác dụng của kiếm quyết là ngưng tụ kiếm khí và điều chỉnh nội lực. Nếu so chiêu quá gần thì tay phải cầm kiếm dài ba thước không kịp biến hóa quay về, thông thường cũng dùng ngón tay trái bấm tay niệm chú thay cho đoản kiếm, công kích yếu điểm của kẻ địch, bù lại sơ hở trong chớp mắt này. Nhưng dùng kiếm quyết tay trái điều khiển trường kiếm ở tay phải, chớ nói kiếm pháp Kiếm Môn hoàn toàn không có ghi chép, thì ám vệ Cửu sống hơn hai mươi năm cũng mới trông thấy lần đầu.
Tư Đồ Phong tập trung chia nội lực thành hai phần, phân phối đều sang hai tay. Trong phút chốc, tay trái tay phải nắm chuôi kiếm và mũi kiếm đồng thời kéo giãn, giống như kẻ ngốc đang quyết chiến với chính mình. Y mặc sức vung tay trái, gân xanh trên cổ tay cuồn cuộn nổi lên, hai ngón tay kẹp mũi kiếm mạnh mẽ quăng ra sau, tựa như đang bắn một cái nỏ vô hình cực lớn mà người thường không thể kéo.
Ám vệ Cửu nhìn không chớp mắt, chỉ thấy mũi kiếm nhọn xé gió, bật về phía sau theo một góc độ không thể tưởng tượng.
Tư Đồ Phong tuyên thệ xẻ đôi trời đất, vung kiếm lên chém một nhát.
Ám vệ Cửu chăm chú nhìn – Lại chưa thấy ánh kiếm. Tới lúc Tư Đồ Phong nhét kiếm vào vỏ, lắc lắc cổ, thì kiếm khí trùng trùng điệp điệp mới cuồn cuộn ùa tới như cuồng phong trên đất, lớp băng trải dài trên mặt suối vỡ nát, vụn băng lấp lánh đầy trời. Tảng đá nọ rung chuyển, chậm rãi tách làm đôi từ vết chém, một nửa chìm xuống, một nửa vẫn nhô trên mặt nước, rung rung tạo thành từng vòng bột mịn đục ngầu.
Ám vệ Cửu chợt nhận ra mấu chốt trong đó, tay trái tay phải của Tư Đồ Phong không phân cao thấp, mà đồng thời rót hai luồng kiếm khí vào bách luyện thép (Lưỡi kiếm bằng thép được rèn đi rèn lại rất nhiều lần để loại bỏ tạp chất và tăng cường tính năng), lại dựa vào sức bật như kéo cung, dùng tốc độ người thường khó có thể phát giác bắn ra đường kiếm, vừa nhanh vừa mạnh. Nhưng chiêu kiếm này tuy sức mạnh kinh người, khi tung ra lại khá mất sức, không thích hợp đối phó với cao thủ gian trá và khó áp sát như ‘Ân Vô Hận’.
Có lẽ Tư Đồ Phong cho rằng mình có thể dùng kiếm xẻ đá là chuyện đương nhiên, nên cũng không đợi ám vệ Cửu, khẩn cấp nhảy vào con đường bí mật giữa tảng đá.
Ám vệ Cửu không khỏi chấn động, quên mất cơn đau trong bụng, chạy theo mà rằng, “Tam công tử, vừa nãy là chiêu gì?”
Tư Đồ Phong thường xuyên nghĩ ra các chiêu kiếm đa dạng, chưa từng có ý định đặt tên cho chúng, đang định đáp bừa là “Chém đứt Tư Đồ Nhã” thì lại thấy không đủ khí phái. Y chợt nhớ lúc rời khỏi Đan Sơn trấn, Tư Đồ Nhã vờ vịt khuyên nhủ ‘Sủy nhi duệ chi, bất khả trường bảo’, ngụ ý là nếu quá sắc sảo, một ngày nào đó sẽ tự làm mình bị thương. Nghĩ vậy, y châm chọc đáp, “Chiêu này của tiểu gia gọi là ‘Sủy Nhi Duệ Chi’!”
Cách hai người khoảng nửa dặm xa, trong địa lao sâu một trượng, Long Tích Dung bịt tai định hô ngừng lại, công tử áo trắng trước mặt nàng bề ngoài có vẻ học cao hiểu rộng, thanh tú lịch sự, sao thổi sáo lại the thé khó nghe tới mức này! Nào ngờ Tư Đồ Nhã đổi động tác ngón tay, cùng một cây sáo trúc, giai điệu thình lình biến chuyển một trời một vực, vui vẻ rộn ràng, lại mang theo quý khí vững vàng của Thiên gia hoàng tộc.
Long Tích Dung nghe đến say mê, thấp thoáng còn như trông thấy Hoàng Thành Kim Lăng ở ngay trước mắt, mái ngói lưu ly trùng điệp nối đuôi nhau, ngũ tích lục thú lặng im ngắm nhìn nền thảm Ba Tư đỏ thắm, vũ nữ ca múa xoay tròn trước thềm cung, vẻ như chỉ ngừng khi sức cùng lực kiệt.
Bản án lạnh lùng của Hoàng đế, chẳng chút nể tình xuyên qua giai điệu du dương, “Lăng ái khanh, điệu múa xoay vòng này của Hoàng hậu chẳng bằng một phần vạn của khanh.”
Cận thần khom lưng đáp, “Thứ cho lão thần cả gan nói thẳng, kỹ nữ thời cổ còn biết xuống kiệu để bảo vệ Quân uy, bây giờ Hoàng hậu nương nương có cung điện bậc nhất, mẫu nghi thiên hạ, vậy mà lại tùy tiện làm bậy, tranh giành mỹ danh Phi Yến với tiểu nữ tản mạn dân gian, lão thần thật sự xấu hổ không chịu nổi…”
Hoàng đế nửa đùa nửa thật nói, “Theo ý trẫm, Đông Thi học đòi nhăn mặt (Dựa theo tích: Nàng Tây Thi xinh đẹp mỗi lần nhăn mặt vì cơn bệnh bẩm sinh giày vò thì lại càng xinh đẹp hơn. Nàng Đông Thi xấu xí thấy thế nên cũng bắt chước làm điệu bộ nhăn mặt như Tây Thi, không ngờ lại càng xấu xí hơn, ai trông thấy nàng cũng vội vã lánh xa – ý nói bắt chước vụng về) cũng khá thú vị.”
Long Tích Dung chua chát, mẫu hậu nàng là mẫu nghi thiên hạ, nhưng cũng chỉ là một nữ tử tầm thường muốn níu kéo trái tim Hoàng đế. Nào ngờ hành động này biến khéo thành vụng, ngược lại còn cổ vũ ý định nạp phi của Hoàng đế. Lăng Phi trường tụ thiện vũ (Tay áo dài thì khiêu vũ đẹp – Ý chỉ có sẵn hậu thuẫn thì dễ thành công, tương tự với câu ‘Mạnh vì gạo, bạo vì tiền) nọ vào cung lại thình lình nổi tiếng, “Ta là người giang hồ, không quen với quy củ triều đình các ngươi, ta không cần biết ngươi là Hoàng đế hay là thứ dân, ngươi thân là nam nhân bảy thước ngang tàng lại không biết giữ mình trong sạch, mặc cho vô số người chia sẻ ngươi, vuốt ve ngươi, như vậy khác nào lấy sắc dụ người, ngươi không uất ức sao?”
Ngoài cửa bên của tẩm cung, thái giám vội vàng kêu, “Hoàng Thượng, đã đến giờ!” Vị phi tử mới tới này ở trên long sàng đã quá lâu.
Hoàng Thượng không vội nhưng thái giám vội. Cửu ngũ chí tôn mà thở mạnh cũng không dám, Lăng Phi ném trâm cài, ghim mũ của thái giám vào tường đá bên ngoài cửa sổ, “Cút!”
“Thái giám mà dám chõ mũi vào chuyện phòng the của ngươi, đúng là chẳng khác nào tú bà trong dân gian. Ngươi mà là Hoàng đế à? Đồn ra lại khiến người trong thiên hạ nhạo báng phu quân ta!”
Hoàng đế ngượng ngùng nói, “Đây là quy định của Thái Tổ…”
Lăng Phi sẵng giọng, “Quy định của Thái Tổ có một điều là không cho phép thái giám nắm quyền cao, thái giám này can thiệp vào chuyện phòng the, cả long chủng cũng dựa vào việc chúng nhận được bao nhiêu hối lộ, chẳng còn ai trong cung oai phong hơn chúng, ngươi có phải nam nhi nữa không?”
Hoàng đế mặt mũi ỉu xìu, “… Trẫm mới kế vị ba năm, căn cơ chưa ổn, nhiều việc trong cung vẫn khó làm chủ.”
Lăng Phi khích lệ, “Trên đời không có việc gì khó. Hiện nay đã có các nghĩa sĩ giang hồ từ Tây Vực xa xôi vượt ngàn dạm tới, nguyện dốc sức vì Hoàng Thượng. Họ võ công cao, lại rất nghĩa khí, cực kỳ chướng mắt lũ gian thần nịnh bợ. Hoàng Thượng chỉ cần ném mấy lượng bạc khen thưởng, đám nghĩa sĩ này sẽ không biến sắc thay Hoàng Thượng diệt cỏ tận gốc. Có câu, vua nào thần nấy, Hoàng Thượng nên nhanh chóng bồi dưỡng trung thần, diệt trừ phản nghịch để tránh cường chi nhược cán (cành cây lớn mạnh, thân cây yếu ớt). Mà trong triều đã có cha ta dẹp tan nghị luận, Hoàng Thượng còn do dự cái gì? Tay sai cầm quyền, ngoại thích lộng quyền, dân chúng lầm than.”
Hoàng đế lã chã rơi lệ, “Điệu ‘Nhất Hộc Trân Châu’ của Hoàng hậu bi thương tới vô cùng, có phải trẫm đã phụ bạc nàng ấy, làm sai chuyện gì hay không?” (*Hộc là dụng cụ để đo dung tích thời xưa, dung lượng bằng 10 đấu, sau đổi thành 5 đấu)
Lăng Phi cười nhạt, “Đó là bắt nguồn từ sự tích Mai phi tranh giành tình cảm với Dương Quý Phi thời Đường. Hoàng hậu nương nương muốn nhắc nhở Hoàng Thượng, nếu Hoàng Thượng có mới nới cũ giống Đường Huyền Tông thì một ngày nào đó sẽ bị phản tặc đuổi giết, phải trốn Đông trốn Tây, tè ra quần, cuối cùng phải ban chết cho thần thiếp, rơi vào tình cảnh cô đơn chiếc bóng, buồn bực mà chết!”
Long Tích Dung vẫn nhớ như in hàng chữ nhỏ rất khó nhìn trong ‘Khởi Cư Chú’ của tiên đế: Hoàng hậu ghen tị thất đức, ba năm không có con nối dõi, không đảm đương được chức trách, giáng xuống thành Phi.
Tiếng sáo ngừng, Giáo chúng tiến lên ghé tai báo với Long Tích Dung, tất cả đã chuẩn bị xong. Long Tích Dung xốc lại tinh thần, giơ tay ra hiệu cho các huynh đệ trong trại ùa vào, dẫn các công tử trúng mê hồn hương mỗi người mỗi vẻ ra khỏi địa lao, đi vào một đường hầm bí mật quanh co sâu thẳm.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook