Chiến Dịch Trái Tim
-
Chương 12
“KHÔNG NGHI NGỜ GÌ NỮA, tối nay Christopher Farley nợ ngài nhiều lắm đấy, ngài Jones ạ.” Adam Harrow uể oải xay xoay ly sâm banh trong bàn tay đeo găng. “Nhưng mà này, tôi biết chắc là dù không có sự hiện diện của ngài thì tối nay khách khứa hẳn cũng rất đông nhờ vào vẻ trác tuyệt của các bức ảnh do phu nhân của ngài chụp đấy. Dù sao đi nữa, tôi một lòng ngờ rằng chính tin tức về sự trở về ngoạn mục của ngài đã góp phần rất lớn vào việc gia tăng lượng khách.”
Gabriel rời mắt khỏi bức ảnh được đóng khung quay sang ngắm nhìn chàng thanh niên mảnh dẻ, hào hoa có phần uể oải vừa mới đến bên cạnh.
Lúc vừa đến sảnh triển lãm Venetia đã giới thiệu Harrow với chàng. Sau đó nàng đã bị cuốn đi bởi một đám đông nào là đồng nghiệp, nào là người ái mộ và những kẻ chỉ đơn thuần là hiếu kỳ. Giờ đây nàng đang thu hút sự chú ý ở đầu kia căn phòng. Gabriel đã nhận thấy ngay từ sớm rằng tối nay chàng sẽ phải đứng trơ một mình thôi. Buổi triển lãm ngoài mặt là một hoạt động xã hội nhưng đằng sau những cuộc chuyện trò hăng say về nghệ thuật nhiếp ảnh lẫn những chuyện tầm phào gần đây, thì vợ của chàng còn phải làm ăn kinh doanh nữa.
May mắn sao Harrow đã tỏ ra là một người bạn gẫu thú vị. Giọng anh ta thấp trầm và nhã nhặn. Ở anh ta toát lên vẻ bình thản, vui tươi đặc trưng của một quý ông sành sỏi đến ngọn ngành mọi thứ, từ các hội quán và nhân tình cho đến nghệ thuật lẫn rượu vang. Chiếc quần âu và áo sơ mi cổ bẻ của anh ta thuộc kiểu tân thời bậc nhất. Mái tóc nâu nhạt được vuốt ngược từ trán ra sau và bóng loáng nhờ sử dụng một lượng sáp chải tóc vừa phải.
Những đường nét trên gương mặt của Harrow được tạo tác bởi sự tinh tế, gần như mỏng manh. Những nét ấy khiến Gabriel nhớ đến một trong những vị hiệp sĩ tuấn mỹ thoát tục trong một bức họa của Burne-Jones. Nhớ đến tên của vị họa sĩ, Gabriel một lần nữa nhận ra cái tên Jones mới phổ biến làm sao. Chẳng trách Venetia lại quả quyết rằng sẽ chẳng có ai chú ý đến chuyện lại thêm một nhà Jones nữa xuất hiện ở Luân Đôn.
“Nói vậy thì tôi hiểu rằng Farley là người chịu trách nhiệm tổ chức buổi triển lãm này chăng?” Gabriel hỏi.
“Đúng vậy.” Harrow nhấp một ngụm sâm banh rồi hạ ly xuống. “Ông ấy là người có tiền của và đã trở thành một kiểu mạnh thường quân cho cộng đồng nhiếp ảnh. Ông ấy có tiếng là rất phóng tay với những ai mới vào nghề. Thậm chí ông ấy còn cho duy trì một phòng tối đầy đủ dụng cụ ngay tại cơ ngơi này cho những nhiếp ảnh gia không có khả năng tự trang bị dụng cụ và hóa chất.”
“Vậy à.”
“Farley luôn tận tụy cống hiến cho quan điểm nhiếp ảnh xứng đáng được xem là một loại hình nghệ thuật thực thụ.” Harrow nhướng cong một bên chân mày thanh tú. “Tiếc là, quan điểm ấy vẫn còn gây rất nhiều tranh cãi trong các giới khác nhau.”
“Nhưng nếu nhìn qua đám đông ở đây tối nay thì sẽ không ai biết cả,” Gabriel bảo.
Sảnh triển lãm sáng rực ánh đèn đang chật cứng những vị khách quần là áo lượt. Khách khứa thong thả dạo quanh phòng, ly sâm banh hay cốc nước chanh trên tay, đang ra vẻ ngắm nghía kỹ lưỡng các bức ảnh treo trên tường.
Các bức ảnh trong cuộc triển lãm này là tác phẩm của một số nhiếp ảnh gia khác nhau và ảnh được sắp xếp theo các hạng mục: Cảnh đồng quê, Chân dung, Kiến trúc, Lăng tẩm ở Luân Đôn, và Chủ đề mỹ thuật. Venetia đóng góp ở cả hai hạng mục Chân dung và Lăng tẩm.
Gabriel nhận thấy Harrow có thể là một nguồn thông tin hữu dụng. Nếu tên trộm muốn thâm nhập vào giới kinh doanh của Venetia, có thể tối nay hắn sẽ ở đây.
“Tôi sẽ rất lấy làm biết ơn nếu anh giúp tôi biết thêm danh tính của vài người đang hiện diện tại đây tối hôm nay.” Gabriel nói. “Dường như phu nhân của tôi đang giao thiệp với khá nhiều nhân vật cao quý.”
Harrow liếc sang chàng vẻ dò đoán và rồi nhún vai. “Sẵn lòng thôi. Tất nhiên, tôi không biết tất cả mọi người, nhưng tôi có thể chỉ ra những kẻ tham vọng.” Anh hất cằm về phía một cặp trung niên nổi bật. “Đức ngài Netherhampton cùng phu nhân. Họ tự cho mình là những người am hiểu nghệ thuật. Việc họ có mặt tại đây tối nay đã khiến cho buổi triển lãm này đặc biệt lắm rồi.”
“Tôi hiểu,” Gabriel đáp.
Harrow cười nhếch. “Tôi nghe nói phu nhân Nethrhampton từng là diễn viên. Mọi người trong giới thượng lưu đã dễ dàng quên gốc gác của bà ta vì lẽ giờ đây bà ta đã kết hôn cùng đức ngài Netherhampton.”
“Tôi chắc hẳn những ngón nghề diễn xuất là loại hình huấn luyện tuyệt vời để tiến chân vào thế giới thượng lưu đấy.”
Harrow bật cười. “Rõ là thế còn gì. Thật sự ra, đây là một thế giới đầy mặt nạ cùng bề ngoài giả dối, phải không nào?” Anh hất cằm về phía một phụ nữ khác. “Người đàn bà ăn diện màu hồng quá lố ở bên kia phòng là phu nhân Chilcott. Hai năm trước chồng bà ta qua đời, để lại cho bà ta cả một gia tài. Bà ta là một trong những khách hàng đầu tiên của phu nhân ngài đấy, và kể từ đó đã giới thiệu nhiều người bạn của mình cho cô ấy.”
“Tôi phải ghi nhớ để hết sức lịch sự với người phụ nữ này nếu có được giới thiệu.”
Harrow liếc mắt đầy vẻ đánh giá qua đám đông rồi dừng lại. “Ngài có thấy quý ông lớn tuổi chống gậy kia không? Người trông như thể bất cứ lúc nào cũng ngã xuống đến nơi ấy? Đấy là đức ngài Ackland.”
Gabriel chuyển hướng nhìn sang người đàn ông lưng còng, tóc muối tiêu, râu ria xồm xoàm đi cùng một phụ nữ hấp dẫn mê hồn và trẻ tuổi hơn nhiều. Ngoài cây gậy ra, ông Ackland còn bấu víu vào cánh tay cô gái theo cách cho thấy là ông ta cần cánh tay ấy để trợ lực. Cặp đôi này đang chiêm ngưỡng một bức ảnh trong hạng mục Chân dung.
“Tôi thấy ông ta rồi,” Gabriel đáp.
“Ackland đã về nghỉ dưỡng tại vùng đồng quê từ lâu. Không có con cái thừa tự gì. Gia tài ông ta sẽ để lại cho mấy người bà con xa nào đó, tôi nghĩ thế.”
“Trừ phi quý cô xinh đẹp đang đỡ ông ta đứng kia có thể thuyết phục ông ta cưới mình chứ gì? Gabriel hỏi.
“Người ta đồn là thế, dĩ nhiên rồi. Họ bảo Ackland đang dần dần nghễnh ngãng và sức khỏe lại rất kém nhưng hình như ông ta đã được lôi về từ cửa từ nhờ vào sinh vật đáng yêu đang đứng bên cạnh kia.”
“Thật ngoạn mục làm sao khi thấy một người phụ nữ xinh đẹp có thể làm được gì cho một người đàn ông khi các bác sĩ của ông ta đã từ bỏ mọi hy vọng nhỉ,” Gabriel nhận xét.
“Quả thật. Quý bà có quyền năng chữa trị đáng ngạc nhiên ấy là bà Rosalind Fleming.”
Âm giọng của Harrow có chút thay đổi, Gabriel nhận thấy thế. Nốt thích thú có phần kín đáo chế giễu đã biến mất. Thay vào đó là giọng mỉa mai lạnh lùng, khinh khi ra mặt.
“Chuyện gì đã xảy ra với ông Fleming vậy?” Gabriel hỏi.
“Một câu hỏi xuất sắc,” Harrow đáp. “Người đàn bà kia, lẽ đương nhiên, là góa phụ.”
Gabriel cũng tự mình đưa mắt dò xét khắp phòng, người thợ săn trong chàng không phải đang tìm kiếm con mồi mà là đối thủ - những người khác trông như thể có lẽ là kẻ săn mồi dưới bề ngoài lịch thiệp.
“Thế còn người đàn ông đang đứng một mình gần chậu cọ cảnh thì sao?” chàng hỏi. “Ông ta không có vẻ là định đến đây để giao lưu trò chuyện.”
Người đàn ông bên cạnh cây cọ dường như đang đứng chiếm lĩnh một khoảng xa lánh, riêng biệt trong căn phòng. Gabriel biết rõ kẻ nào to gan lắm mới dám xâm phạm đến khoảng không đó.
Harrow liếc sang hướng ấy, thoáng cau mày. “Đấy là Willows. Tôi không thể nói cho ngài biết được gì nhiều về người này. Xuất hiện trong giới khoảng vài tháng trước. Ông ta sưu tập tranh ảnh và đồ cổ. Người này rất kín kẽ nhưng rõ ràng là có trong tay cả một gia tài. Tôi tin rằng ông ta đã mua vài tấm ảnh của phu nhân Jones để về trưng ở bảo tàng riêng.”
“Đã kết hôn chứ?”
“Không,” Harrow đáp. “Ít ra là chúng tôi không nghĩ thế.”
Gabriel thắc mắc về cụm từ chúng tôi này nhưng bản năng chàng mách bảo không nên dò hỏi làm gì.
Chàng âm thầm ghi nhớ cái tên này và tiếp tục quan sát căn phòng, tìm kiếm kẻ cũng toát lên vẻ lạnh nhạt, tiềm ẩn mối nguy hiểm tương tự.
Trong nhiều phút tiếp theo chàng đã đưa vào danh sách của mình thêm ba cái tên trong khi Harrow tiếp tục bình phẩm. Chàng đặc biệt chú ý đến những người mà Harrow bảo có sưu tầm ảnh của Venetia.
“Xin chúc mừng khối kiến thức về những chuyện ngồi lê đôi mách trong giới thượng lưu của anh,” chàng bảo khi Harrow rốt cuộc cũng thôi không nói nữa.
“Đến hội quán thì người ta cứ nghe luôn ấy mà.” Harrow nhấp thêm ngụm sâm banh. “Ngài cũng biết là thế nào rồi đấy.”
“Tôi xa thành phố cũng đã khá lâu,” Gabriel nhắn nhở. “E là tôi cũng khá lạc hậu rồi.”
Như thế cũng đúng đấy chứ, chàng thầm nghĩ. Hầu như trong gia đình nhà Jones xa lánh sự đời ấy không ai có hứng thú gì với xã hội thượng lưu cả. Việc ấy giờ rất có lợi cho chàng vì chàng có thể quẩn quanh trong thế giới thượng lưu ấy mà ít phải găp rủi ro bị nhận diện.
“À vâng, dĩ nhiên rồi,” Harrow đáp. “Rồi còn thêm chứng quên trầm trọng mà ngài đã phải kinh qua sau vụ tai nạn nữa chứ. Hẳn chứng bệnh ấy đã chẳng giúp ích được gì cho trí nhớ của ngài rồi.”
Gabriel nhận ra mình đã hỏi han hơi quá đà. Harrow đang bắt đầu thấy tò mò. Thế thì không ổn.
“Chẳng giúp gì được thật,” chàng thừa nhận.
“Lần đầu tiên ngài nhớ ra phu nhân của mình là khi nào thế?” Harrow hỏi.
“Tôi nghĩ ký ức tôi quay trở lại vào một buổi sáng khi tôi đang ngồi dùng điểm tâm trong khách sạn San Francisco,” Gabriel vừa đáp vừa tưởng tượng. “Thỉnh thoảng tôi chợt ngộ ra không thấy vợ mình ở bên rót trà cho. Tôi thấy hình như phải có một người là vợ mình đang ở đâu đấy. Tôi bắt đầu băn khoăn không rõ liệu mình đã để lạc cô ấy ở đâu chăng. Và rồi mọi chuyện ùa về với tôi chỉ trong nháy mắt.”
Harrow nhướng hết cả mày. “Hẳn phải bị choảng một cú thật nặng vào đầu thì một người đàn ông mới quên được phu nhân Jones.”
“Quả thật,” Gabriel đáp. “Ngã đâm đầu xuống vực sẽ đem lại hiệu ứng tương tự thôi mà, tiếc là thế đấy.”
Chàng nhìn qua đầu kia căn phòng, Venetia đang đứng giữa một đám đông chật ních. Bức Thiếu nữ đương mộng, bức ảnh mới nhất trong loạt ảnh Mộng, được treo trên tường sau lưng nàng.
Tấm ảnh là bức tranh u sầu, mờ phai nhân ảnh của một thiếu nữ đang nằm ngủ, vận toàn màu trắng, bồng bềnh, mơ hồ. Khi nãy Gabriel đã nhìn kỹ bức ảnh này và nhận ra Amelia chính là người mẫu. Một dãi ruy băng giải nhất được đính đong đưa cạnh bức ảnh.
Harrow nhìn theo hướng chàng. “Tôi không thể không để ý thấy phu nhân Jones vẫn còn vận đồ đen, mặc dù ngài đã quay về nhân thế.”
“Cô ấy bảo cô ấy không có quần áo màu sắc khác,” Gabriel bảo. “Chẳng còn thời gian đi mua bộ váy mới cho kịp sự kiện tối nay.”
“Chắc hẳn phu nhân rất nóng lòng muốn thay thế toàn bộ những trang phục mang màu tang tóc ấy bằng những món sặc sỡ hơn nhiều nhỉ.”
Gabriel phớt lờ lời nhận xét ấy mà không nói lại câu nào. Chàng có linh cảm rằng Venetia sẽ không lao thẳng đến chỗ thợ may để ăn mừng chuyến quay về của chàng đâu.
Đúng lúc ấy một người đàn ông trong đám đông đang vây quanh Venetia hơi rướn người tới sát nàng hơn để to nhỏ điều gì đấy vào tai nàng, nàng liền mỉm cười.
Gabriel bỗng trào dâng niềm thôi thúc muốn được băng qua bên kia phòng, tóm lấy cổ gã đàn ông kia mà quăng ra đường.
Harrow liếc sang chàng. “Hẳn ngài đã vô cùng thất vọng khi biết phu nhân Jones đã có kế hoạch cho buổi tối hôm nay.”
“Anh nói sao cơ?” Gabriel hờ hững hỏi lại, chàng vẫn còn chăm chú vào gã đàn ông đang tì xán vào Venetia.
“Tôi không tin rằng có người chồng nào đã bị chia cắt khỏi tân nương của mình một thời gian đằng đẵng đến vậy lại mong muốn ngay đêm đầu tiên trở về nhà đã phải è cổ chịu đựng một cuộc triển lãm ảnh.”
Harrow quay ngược tình thế đây mà, Gabriel thầm nghĩ. Chàng thanh niên này giờ đây mới là người đặt câu hỏi.
“Cũng thật may cho tôi, ảnh của vợ tôi đẹp đến điếng người,” Gabriel đáp.
“Đúng thật. Tiếc là với những ảnh khác trưng bày tại đây tối nay thì không thể nói như vậy được.” Harrow quay lại với bức ảnh treo trên tường. “Tác phẩm của phu nhân Jones áp đặt một quyền lực siêu hình nào đó với người xem, phải không nào? Các bức ảnh của cô ấy buộc người ta phải nhìn sâu hơn vào bối cảnh.”
Gabriel chăm chú ngắm nhìn bức ảnh mà Harrow đang thưởng lãm. Bức này được đăng vào hạng mục Kiến trúc. Không như những bức khác đang treo cạnh, trong tấm ảnh này còn có hình dáng một con người. Một cô gái – lại là Amelia, chiếc mũ của cô bé bị nắm chặt trong một bên tay đeo găng đang đứng trước lối vào mái vòm bằng đá của một ngôi nhà thờ cổ. Toàn cảnh gợi lên một hiệu ứng đến là ám ảnh.
“Như thể cô gái chúng ta đang nhìn thấy đây là một bóng ma đã quyết định cho chúng ta thấy được sự hiện diện của mình,” Harrow quan sát. “Cô gái đã làm cho chất gothic ma quái của công trình kiến trúc kia càng thêm nổi bật, ngài có đồng ý chăng?”
“Phải, đúng thế thật,” Gabriel đáp và rời mắt khỏi bức ảnh để trông theo Willows đang hướng về phía cửa trước.
“Phu nhân Jones đã lồng vào trong tất cả ảnh của mình một cảm giác gì đấy không thể xác định được,” Harrow vẫn thao thao. “Ngài biết đấy, tôi đã nhìn tác phẩm của cô ấy cả trăm lần mà vẫn không thể tìm ra được khía cạnh nào mê hoặc mình như thế. Tôi từng có lần hỏi phu nhân làm cách nào cô ấy có thể tạo ra những hiệu ứng cảm xúc sâu lắng với người xem đến vậy.”
Willows đã biến mất. Gabriel quay lại với Harrow.
“Thế cô ấy nói sao?” chàng hỏi.
“Chỉ bảo rằng có liên quan gì đấy đến việc căn chỉnh ánh sáng,” Harrow đáp.
“Một câu trả lời hợp lý.” Gabriel nhún vai. “Nghệ thuật nhiếp ảnh là nghệ thuật chụp lại được ánh sáng lẫn hình bóng rồi lưu giữ chúng trên mặt giấy thôi mà.”
Khuôn miệng thanh tú của Harrow cong lên như chế giễu. “Tay nhiếp ảnh nào cũng sẽ bảo với ngài như thế, mà tôi phải thừa nhận lời ấy cũng có nhiều phần sự thật. Tôi hiểu rằng căn chỉnh ánh sáng là một việc hết sức khó khăn phức tạp, đòi hỏi phải có trực giác lẫn con mắt thẩm mỹ. Nhưng với tác phẩm của phu nhân Jones thì tôi buộc phải tin rằng còn có liên quan đến cả thiên khiếu nữa.”
“Thiên khiếu kiểu như thế nào?” Gabriel hỏi, đột nhiên thấy hứng thú.
Harrow chỉ về phía bức ảnh có cô gái ma mị. “Cứ như thể ban đầu cô ấy nhìn ra điều gì đó rất độc đáo trong các chủ thể của mình, điều gì đó không hoàn toàn hiện rõ. Rồi cô ấy vận dụng tất cả các khía cạnh cả về khoa học lẫn nghệ thuật trong việc chụp ảnh để thể hiện tính chất ấy trong bức ảnh thành phẩm.”
Gabriel nhìn lại lần nữa bức ảnh Amelia đứng trước lối vào nhà thờ.
“Ảnh của cô ấy chụp về những điều bí mật,” chàng bảo.
Harrow lén nhìn chàng. “Ngài bảo sao?”
Gabriel ngẫm nghĩ về các bức ảnh mà Venetia đã chụp tại trụ sở Hội Arcane – về cách nàng chụp được những phần bí ẩn trong từng cổ vật, cùng lúc đó ghi lại từng chi tiết thành ảnh.
“Những bức ảnh của phu nhân tôi vừa phơi bày nhưng cũng vừa che giấu,” chàng bảo. Thật kinh ngạc làm sao những chữ phu nhân tôi lại dễ dàng thoát ra miệng chàng đến vậy. “Đấy là điều đã lôi cuốn mắt nhìn. Con người ta, suy cho cùng, luôn thấy kích thích cao độ với những điều họ bị cấm không được biết.”
“A, phải nhỉ, tất nhiên rồi,” Harrow khẽ reo. “Sự cám dỗ của trái cấm. Chẳng có gì thú vị bằng một bí mật được niêm kín, phải không nào?”
“Chính thế.”
Harrow nghiêng đầu ra chiều suy tư. “Đúng là thế rồi, chính nó. Lẽ ra tôi phải nghĩ ra điều này sớm hơn mới phải. Phu nhân của ngài chụp lại những điều bí mật.”
Gabriel nhìn qua bức ảnh thêm lần nữa rồi nhún vai. “Tôi nghĩ điều này vẫn rành rành ra đấy rồi ấy chứ.”
“Ngược lại là khác. Ngài chỉ cần đọc vài bài nhận xét được các nhà báo phê bình viết ra thì sẽ thấy rằng ngôn từ hết lần này đến lần khác đều thất bại trong việc mô tả sức hấp dẫn của các bức ảnh do phu nhân chụp. Thực tế thì, phu nhân đã bị chỉ trích tơi bời trên mặt báo chỉ bởi các chủ đề của cô ấy không được rõ ràng rành mạch.”
“Cô ấy bị chỉ trích ư?”
Harrow bật cười. “Ngài nghe ra bực bội thật nhỉ. Thôi ngài cũng nên giữ gìn thời gian và sức lực cho chuyện khác đi. Nơi nào có nghệ thuật thì theo sau đấy luôn là đám phê bình. Bản chất nó đã thế rồi.” Anh ta liếc ngang qua căn phòng. “Kìa, cạnh bàn tiệc buffet là một ví dụ của giống loài ấy đấy.”
Gabriel nhìn theo hướng ấy. “À phải, ông Otford của tờ Người đưa tin bay. Chúng tôi đã gặp nhau rồi.”
“Đúng vậy, ông ta đã viết nên câu chuyện truyền cảm về cuộc trở về ngoạn mục của ngài trên tờ tin tức buổi sáng, phải không nào? Tôi tin chắc ngài sẽ đọc được bài phê bình cầu kỳ của ông ta về tác phẩm của phu nhân Jones trong ấn phẩm sáng mai đấy.”
“Tôi rất mong được đọc những nhận xét của ông ta đây.” Gabriel bảo.
“Xùy.” Sự khinh tởm của Harrow hiện rõ ra mặt. “Ngài đừng phí thời gian làm gì. Tôi bảo đảm rằng ngón tay út của ngài còn hiểu biết sâu sắc hơn toàn bộ khối não của tên này đấy. Nói thẳng ra, tôi dám bạo gan nói rằng ngài sở hữu cảm quan nghệ thuật còn phong phú hơn đa số những tay sưu tầm mà tôi biết.” Anh ta ngừng một lát. “ Đấy là chưa kể còn so với đại đa số các đức ông chồng nữa kia.”
“Cảm ơn, nhưng sao tôi vẫn có cảm giác chưa hiểu hết được ý anh.”
“Ý của tôi, thưa ngài, là đa phần các quý ông trong vị trí của ngài đây, vừa mới trở về nhà rồi phát hiện ra vợ mình đã tự thân gây dựng nên cơ sở kinh doanh, thì sẽ chẳng lấy gì làm vui lòng cho lắm đâu.”
Đúng vậy thật, Gabriel thầm nhủ. Venetia, dì Beatrice và Amelia đang rất mạo hiểm với hiệu ảnh của mình. Trong năm mươi năm qua thế giới đã thay đổi khá nhiều nhưng có những chuyện đổi thay chậm hơn những chuyện khác. Vẫn còn quá ít ngành nghề chuyên môn mở ra cho phụ nữ. Điều hành kinh doanh được cho là việc không phù hợp đối với một cô gái được nuôi lớn trong giới thượng lưu khả kính. Và rõ ràng không nghi ngờ gì rằng Venetia và gia đình của nàng xuất thân từ giới ấy.
“Vợ tôi là một nghệ sĩ,” chàng nói.
Harrow cứng người. “Nào, không cần phải đe dọa tôi đâu ngài ạ. Không có ý xúc phạm gì đâu, tôi xin đảm bảo. Tôi là một kẻ hết lòng ngưỡng mộ nghệ thuật của phu nhân ngài.”
Gabriel im lặng nhấm nháp sâm banh.
“Mong ngài tin rằng tôi hoàn toàn chân thành, thưa ngài.” Harrow lại thận trọng tiến đến gần hơn. “Thực ra thì, tôi bất ngờ với suy nghĩ hiện tại của ngài thôi. Không có mấy người chồng cấp tiến được như ngài đâu.”
“Tôi quả thật thích xem mình là một người đàn ông hiện đại mà,” Gabriel đáp.
Gabriel rời mắt khỏi bức ảnh được đóng khung quay sang ngắm nhìn chàng thanh niên mảnh dẻ, hào hoa có phần uể oải vừa mới đến bên cạnh.
Lúc vừa đến sảnh triển lãm Venetia đã giới thiệu Harrow với chàng. Sau đó nàng đã bị cuốn đi bởi một đám đông nào là đồng nghiệp, nào là người ái mộ và những kẻ chỉ đơn thuần là hiếu kỳ. Giờ đây nàng đang thu hút sự chú ý ở đầu kia căn phòng. Gabriel đã nhận thấy ngay từ sớm rằng tối nay chàng sẽ phải đứng trơ một mình thôi. Buổi triển lãm ngoài mặt là một hoạt động xã hội nhưng đằng sau những cuộc chuyện trò hăng say về nghệ thuật nhiếp ảnh lẫn những chuyện tầm phào gần đây, thì vợ của chàng còn phải làm ăn kinh doanh nữa.
May mắn sao Harrow đã tỏ ra là một người bạn gẫu thú vị. Giọng anh ta thấp trầm và nhã nhặn. Ở anh ta toát lên vẻ bình thản, vui tươi đặc trưng của một quý ông sành sỏi đến ngọn ngành mọi thứ, từ các hội quán và nhân tình cho đến nghệ thuật lẫn rượu vang. Chiếc quần âu và áo sơ mi cổ bẻ của anh ta thuộc kiểu tân thời bậc nhất. Mái tóc nâu nhạt được vuốt ngược từ trán ra sau và bóng loáng nhờ sử dụng một lượng sáp chải tóc vừa phải.
Những đường nét trên gương mặt của Harrow được tạo tác bởi sự tinh tế, gần như mỏng manh. Những nét ấy khiến Gabriel nhớ đến một trong những vị hiệp sĩ tuấn mỹ thoát tục trong một bức họa của Burne-Jones. Nhớ đến tên của vị họa sĩ, Gabriel một lần nữa nhận ra cái tên Jones mới phổ biến làm sao. Chẳng trách Venetia lại quả quyết rằng sẽ chẳng có ai chú ý đến chuyện lại thêm một nhà Jones nữa xuất hiện ở Luân Đôn.
“Nói vậy thì tôi hiểu rằng Farley là người chịu trách nhiệm tổ chức buổi triển lãm này chăng?” Gabriel hỏi.
“Đúng vậy.” Harrow nhấp một ngụm sâm banh rồi hạ ly xuống. “Ông ấy là người có tiền của và đã trở thành một kiểu mạnh thường quân cho cộng đồng nhiếp ảnh. Ông ấy có tiếng là rất phóng tay với những ai mới vào nghề. Thậm chí ông ấy còn cho duy trì một phòng tối đầy đủ dụng cụ ngay tại cơ ngơi này cho những nhiếp ảnh gia không có khả năng tự trang bị dụng cụ và hóa chất.”
“Vậy à.”
“Farley luôn tận tụy cống hiến cho quan điểm nhiếp ảnh xứng đáng được xem là một loại hình nghệ thuật thực thụ.” Harrow nhướng cong một bên chân mày thanh tú. “Tiếc là, quan điểm ấy vẫn còn gây rất nhiều tranh cãi trong các giới khác nhau.”
“Nhưng nếu nhìn qua đám đông ở đây tối nay thì sẽ không ai biết cả,” Gabriel bảo.
Sảnh triển lãm sáng rực ánh đèn đang chật cứng những vị khách quần là áo lượt. Khách khứa thong thả dạo quanh phòng, ly sâm banh hay cốc nước chanh trên tay, đang ra vẻ ngắm nghía kỹ lưỡng các bức ảnh treo trên tường.
Các bức ảnh trong cuộc triển lãm này là tác phẩm của một số nhiếp ảnh gia khác nhau và ảnh được sắp xếp theo các hạng mục: Cảnh đồng quê, Chân dung, Kiến trúc, Lăng tẩm ở Luân Đôn, và Chủ đề mỹ thuật. Venetia đóng góp ở cả hai hạng mục Chân dung và Lăng tẩm.
Gabriel nhận thấy Harrow có thể là một nguồn thông tin hữu dụng. Nếu tên trộm muốn thâm nhập vào giới kinh doanh của Venetia, có thể tối nay hắn sẽ ở đây.
“Tôi sẽ rất lấy làm biết ơn nếu anh giúp tôi biết thêm danh tính của vài người đang hiện diện tại đây tối hôm nay.” Gabriel nói. “Dường như phu nhân của tôi đang giao thiệp với khá nhiều nhân vật cao quý.”
Harrow liếc sang chàng vẻ dò đoán và rồi nhún vai. “Sẵn lòng thôi. Tất nhiên, tôi không biết tất cả mọi người, nhưng tôi có thể chỉ ra những kẻ tham vọng.” Anh hất cằm về phía một cặp trung niên nổi bật. “Đức ngài Netherhampton cùng phu nhân. Họ tự cho mình là những người am hiểu nghệ thuật. Việc họ có mặt tại đây tối nay đã khiến cho buổi triển lãm này đặc biệt lắm rồi.”
“Tôi hiểu,” Gabriel đáp.
Harrow cười nhếch. “Tôi nghe nói phu nhân Nethrhampton từng là diễn viên. Mọi người trong giới thượng lưu đã dễ dàng quên gốc gác của bà ta vì lẽ giờ đây bà ta đã kết hôn cùng đức ngài Netherhampton.”
“Tôi chắc hẳn những ngón nghề diễn xuất là loại hình huấn luyện tuyệt vời để tiến chân vào thế giới thượng lưu đấy.”
Harrow bật cười. “Rõ là thế còn gì. Thật sự ra, đây là một thế giới đầy mặt nạ cùng bề ngoài giả dối, phải không nào?” Anh hất cằm về phía một phụ nữ khác. “Người đàn bà ăn diện màu hồng quá lố ở bên kia phòng là phu nhân Chilcott. Hai năm trước chồng bà ta qua đời, để lại cho bà ta cả một gia tài. Bà ta là một trong những khách hàng đầu tiên của phu nhân ngài đấy, và kể từ đó đã giới thiệu nhiều người bạn của mình cho cô ấy.”
“Tôi phải ghi nhớ để hết sức lịch sự với người phụ nữ này nếu có được giới thiệu.”
Harrow liếc mắt đầy vẻ đánh giá qua đám đông rồi dừng lại. “Ngài có thấy quý ông lớn tuổi chống gậy kia không? Người trông như thể bất cứ lúc nào cũng ngã xuống đến nơi ấy? Đấy là đức ngài Ackland.”
Gabriel chuyển hướng nhìn sang người đàn ông lưng còng, tóc muối tiêu, râu ria xồm xoàm đi cùng một phụ nữ hấp dẫn mê hồn và trẻ tuổi hơn nhiều. Ngoài cây gậy ra, ông Ackland còn bấu víu vào cánh tay cô gái theo cách cho thấy là ông ta cần cánh tay ấy để trợ lực. Cặp đôi này đang chiêm ngưỡng một bức ảnh trong hạng mục Chân dung.
“Tôi thấy ông ta rồi,” Gabriel đáp.
“Ackland đã về nghỉ dưỡng tại vùng đồng quê từ lâu. Không có con cái thừa tự gì. Gia tài ông ta sẽ để lại cho mấy người bà con xa nào đó, tôi nghĩ thế.”
“Trừ phi quý cô xinh đẹp đang đỡ ông ta đứng kia có thể thuyết phục ông ta cưới mình chứ gì? Gabriel hỏi.
“Người ta đồn là thế, dĩ nhiên rồi. Họ bảo Ackland đang dần dần nghễnh ngãng và sức khỏe lại rất kém nhưng hình như ông ta đã được lôi về từ cửa từ nhờ vào sinh vật đáng yêu đang đứng bên cạnh kia.”
“Thật ngoạn mục làm sao khi thấy một người phụ nữ xinh đẹp có thể làm được gì cho một người đàn ông khi các bác sĩ của ông ta đã từ bỏ mọi hy vọng nhỉ,” Gabriel nhận xét.
“Quả thật. Quý bà có quyền năng chữa trị đáng ngạc nhiên ấy là bà Rosalind Fleming.”
Âm giọng của Harrow có chút thay đổi, Gabriel nhận thấy thế. Nốt thích thú có phần kín đáo chế giễu đã biến mất. Thay vào đó là giọng mỉa mai lạnh lùng, khinh khi ra mặt.
“Chuyện gì đã xảy ra với ông Fleming vậy?” Gabriel hỏi.
“Một câu hỏi xuất sắc,” Harrow đáp. “Người đàn bà kia, lẽ đương nhiên, là góa phụ.”
Gabriel cũng tự mình đưa mắt dò xét khắp phòng, người thợ săn trong chàng không phải đang tìm kiếm con mồi mà là đối thủ - những người khác trông như thể có lẽ là kẻ săn mồi dưới bề ngoài lịch thiệp.
“Thế còn người đàn ông đang đứng một mình gần chậu cọ cảnh thì sao?” chàng hỏi. “Ông ta không có vẻ là định đến đây để giao lưu trò chuyện.”
Người đàn ông bên cạnh cây cọ dường như đang đứng chiếm lĩnh một khoảng xa lánh, riêng biệt trong căn phòng. Gabriel biết rõ kẻ nào to gan lắm mới dám xâm phạm đến khoảng không đó.
Harrow liếc sang hướng ấy, thoáng cau mày. “Đấy là Willows. Tôi không thể nói cho ngài biết được gì nhiều về người này. Xuất hiện trong giới khoảng vài tháng trước. Ông ta sưu tập tranh ảnh và đồ cổ. Người này rất kín kẽ nhưng rõ ràng là có trong tay cả một gia tài. Tôi tin rằng ông ta đã mua vài tấm ảnh của phu nhân Jones để về trưng ở bảo tàng riêng.”
“Đã kết hôn chứ?”
“Không,” Harrow đáp. “Ít ra là chúng tôi không nghĩ thế.”
Gabriel thắc mắc về cụm từ chúng tôi này nhưng bản năng chàng mách bảo không nên dò hỏi làm gì.
Chàng âm thầm ghi nhớ cái tên này và tiếp tục quan sát căn phòng, tìm kiếm kẻ cũng toát lên vẻ lạnh nhạt, tiềm ẩn mối nguy hiểm tương tự.
Trong nhiều phút tiếp theo chàng đã đưa vào danh sách của mình thêm ba cái tên trong khi Harrow tiếp tục bình phẩm. Chàng đặc biệt chú ý đến những người mà Harrow bảo có sưu tầm ảnh của Venetia.
“Xin chúc mừng khối kiến thức về những chuyện ngồi lê đôi mách trong giới thượng lưu của anh,” chàng bảo khi Harrow rốt cuộc cũng thôi không nói nữa.
“Đến hội quán thì người ta cứ nghe luôn ấy mà.” Harrow nhấp thêm ngụm sâm banh. “Ngài cũng biết là thế nào rồi đấy.”
“Tôi xa thành phố cũng đã khá lâu,” Gabriel nhắn nhở. “E là tôi cũng khá lạc hậu rồi.”
Như thế cũng đúng đấy chứ, chàng thầm nghĩ. Hầu như trong gia đình nhà Jones xa lánh sự đời ấy không ai có hứng thú gì với xã hội thượng lưu cả. Việc ấy giờ rất có lợi cho chàng vì chàng có thể quẩn quanh trong thế giới thượng lưu ấy mà ít phải găp rủi ro bị nhận diện.
“À vâng, dĩ nhiên rồi,” Harrow đáp. “Rồi còn thêm chứng quên trầm trọng mà ngài đã phải kinh qua sau vụ tai nạn nữa chứ. Hẳn chứng bệnh ấy đã chẳng giúp ích được gì cho trí nhớ của ngài rồi.”
Gabriel nhận ra mình đã hỏi han hơi quá đà. Harrow đang bắt đầu thấy tò mò. Thế thì không ổn.
“Chẳng giúp gì được thật,” chàng thừa nhận.
“Lần đầu tiên ngài nhớ ra phu nhân của mình là khi nào thế?” Harrow hỏi.
“Tôi nghĩ ký ức tôi quay trở lại vào một buổi sáng khi tôi đang ngồi dùng điểm tâm trong khách sạn San Francisco,” Gabriel vừa đáp vừa tưởng tượng. “Thỉnh thoảng tôi chợt ngộ ra không thấy vợ mình ở bên rót trà cho. Tôi thấy hình như phải có một người là vợ mình đang ở đâu đấy. Tôi bắt đầu băn khoăn không rõ liệu mình đã để lạc cô ấy ở đâu chăng. Và rồi mọi chuyện ùa về với tôi chỉ trong nháy mắt.”
Harrow nhướng hết cả mày. “Hẳn phải bị choảng một cú thật nặng vào đầu thì một người đàn ông mới quên được phu nhân Jones.”
“Quả thật,” Gabriel đáp. “Ngã đâm đầu xuống vực sẽ đem lại hiệu ứng tương tự thôi mà, tiếc là thế đấy.”
Chàng nhìn qua đầu kia căn phòng, Venetia đang đứng giữa một đám đông chật ních. Bức Thiếu nữ đương mộng, bức ảnh mới nhất trong loạt ảnh Mộng, được treo trên tường sau lưng nàng.
Tấm ảnh là bức tranh u sầu, mờ phai nhân ảnh của một thiếu nữ đang nằm ngủ, vận toàn màu trắng, bồng bềnh, mơ hồ. Khi nãy Gabriel đã nhìn kỹ bức ảnh này và nhận ra Amelia chính là người mẫu. Một dãi ruy băng giải nhất được đính đong đưa cạnh bức ảnh.
Harrow nhìn theo hướng chàng. “Tôi không thể không để ý thấy phu nhân Jones vẫn còn vận đồ đen, mặc dù ngài đã quay về nhân thế.”
“Cô ấy bảo cô ấy không có quần áo màu sắc khác,” Gabriel bảo. “Chẳng còn thời gian đi mua bộ váy mới cho kịp sự kiện tối nay.”
“Chắc hẳn phu nhân rất nóng lòng muốn thay thế toàn bộ những trang phục mang màu tang tóc ấy bằng những món sặc sỡ hơn nhiều nhỉ.”
Gabriel phớt lờ lời nhận xét ấy mà không nói lại câu nào. Chàng có linh cảm rằng Venetia sẽ không lao thẳng đến chỗ thợ may để ăn mừng chuyến quay về của chàng đâu.
Đúng lúc ấy một người đàn ông trong đám đông đang vây quanh Venetia hơi rướn người tới sát nàng hơn để to nhỏ điều gì đấy vào tai nàng, nàng liền mỉm cười.
Gabriel bỗng trào dâng niềm thôi thúc muốn được băng qua bên kia phòng, tóm lấy cổ gã đàn ông kia mà quăng ra đường.
Harrow liếc sang chàng. “Hẳn ngài đã vô cùng thất vọng khi biết phu nhân Jones đã có kế hoạch cho buổi tối hôm nay.”
“Anh nói sao cơ?” Gabriel hờ hững hỏi lại, chàng vẫn còn chăm chú vào gã đàn ông đang tì xán vào Venetia.
“Tôi không tin rằng có người chồng nào đã bị chia cắt khỏi tân nương của mình một thời gian đằng đẵng đến vậy lại mong muốn ngay đêm đầu tiên trở về nhà đã phải è cổ chịu đựng một cuộc triển lãm ảnh.”
Harrow quay ngược tình thế đây mà, Gabriel thầm nghĩ. Chàng thanh niên này giờ đây mới là người đặt câu hỏi.
“Cũng thật may cho tôi, ảnh của vợ tôi đẹp đến điếng người,” Gabriel đáp.
“Đúng thật. Tiếc là với những ảnh khác trưng bày tại đây tối nay thì không thể nói như vậy được.” Harrow quay lại với bức ảnh treo trên tường. “Tác phẩm của phu nhân Jones áp đặt một quyền lực siêu hình nào đó với người xem, phải không nào? Các bức ảnh của cô ấy buộc người ta phải nhìn sâu hơn vào bối cảnh.”
Gabriel chăm chú ngắm nhìn bức ảnh mà Harrow đang thưởng lãm. Bức này được đăng vào hạng mục Kiến trúc. Không như những bức khác đang treo cạnh, trong tấm ảnh này còn có hình dáng một con người. Một cô gái – lại là Amelia, chiếc mũ của cô bé bị nắm chặt trong một bên tay đeo găng đang đứng trước lối vào mái vòm bằng đá của một ngôi nhà thờ cổ. Toàn cảnh gợi lên một hiệu ứng đến là ám ảnh.
“Như thể cô gái chúng ta đang nhìn thấy đây là một bóng ma đã quyết định cho chúng ta thấy được sự hiện diện của mình,” Harrow quan sát. “Cô gái đã làm cho chất gothic ma quái của công trình kiến trúc kia càng thêm nổi bật, ngài có đồng ý chăng?”
“Phải, đúng thế thật,” Gabriel đáp và rời mắt khỏi bức ảnh để trông theo Willows đang hướng về phía cửa trước.
“Phu nhân Jones đã lồng vào trong tất cả ảnh của mình một cảm giác gì đấy không thể xác định được,” Harrow vẫn thao thao. “Ngài biết đấy, tôi đã nhìn tác phẩm của cô ấy cả trăm lần mà vẫn không thể tìm ra được khía cạnh nào mê hoặc mình như thế. Tôi từng có lần hỏi phu nhân làm cách nào cô ấy có thể tạo ra những hiệu ứng cảm xúc sâu lắng với người xem đến vậy.”
Willows đã biến mất. Gabriel quay lại với Harrow.
“Thế cô ấy nói sao?” chàng hỏi.
“Chỉ bảo rằng có liên quan gì đấy đến việc căn chỉnh ánh sáng,” Harrow đáp.
“Một câu trả lời hợp lý.” Gabriel nhún vai. “Nghệ thuật nhiếp ảnh là nghệ thuật chụp lại được ánh sáng lẫn hình bóng rồi lưu giữ chúng trên mặt giấy thôi mà.”
Khuôn miệng thanh tú của Harrow cong lên như chế giễu. “Tay nhiếp ảnh nào cũng sẽ bảo với ngài như thế, mà tôi phải thừa nhận lời ấy cũng có nhiều phần sự thật. Tôi hiểu rằng căn chỉnh ánh sáng là một việc hết sức khó khăn phức tạp, đòi hỏi phải có trực giác lẫn con mắt thẩm mỹ. Nhưng với tác phẩm của phu nhân Jones thì tôi buộc phải tin rằng còn có liên quan đến cả thiên khiếu nữa.”
“Thiên khiếu kiểu như thế nào?” Gabriel hỏi, đột nhiên thấy hứng thú.
Harrow chỉ về phía bức ảnh có cô gái ma mị. “Cứ như thể ban đầu cô ấy nhìn ra điều gì đó rất độc đáo trong các chủ thể của mình, điều gì đó không hoàn toàn hiện rõ. Rồi cô ấy vận dụng tất cả các khía cạnh cả về khoa học lẫn nghệ thuật trong việc chụp ảnh để thể hiện tính chất ấy trong bức ảnh thành phẩm.”
Gabriel nhìn lại lần nữa bức ảnh Amelia đứng trước lối vào nhà thờ.
“Ảnh của cô ấy chụp về những điều bí mật,” chàng bảo.
Harrow lén nhìn chàng. “Ngài bảo sao?”
Gabriel ngẫm nghĩ về các bức ảnh mà Venetia đã chụp tại trụ sở Hội Arcane – về cách nàng chụp được những phần bí ẩn trong từng cổ vật, cùng lúc đó ghi lại từng chi tiết thành ảnh.
“Những bức ảnh của phu nhân tôi vừa phơi bày nhưng cũng vừa che giấu,” chàng bảo. Thật kinh ngạc làm sao những chữ phu nhân tôi lại dễ dàng thoát ra miệng chàng đến vậy. “Đấy là điều đã lôi cuốn mắt nhìn. Con người ta, suy cho cùng, luôn thấy kích thích cao độ với những điều họ bị cấm không được biết.”
“A, phải nhỉ, tất nhiên rồi,” Harrow khẽ reo. “Sự cám dỗ của trái cấm. Chẳng có gì thú vị bằng một bí mật được niêm kín, phải không nào?”
“Chính thế.”
Harrow nghiêng đầu ra chiều suy tư. “Đúng là thế rồi, chính nó. Lẽ ra tôi phải nghĩ ra điều này sớm hơn mới phải. Phu nhân của ngài chụp lại những điều bí mật.”
Gabriel nhìn qua bức ảnh thêm lần nữa rồi nhún vai. “Tôi nghĩ điều này vẫn rành rành ra đấy rồi ấy chứ.”
“Ngược lại là khác. Ngài chỉ cần đọc vài bài nhận xét được các nhà báo phê bình viết ra thì sẽ thấy rằng ngôn từ hết lần này đến lần khác đều thất bại trong việc mô tả sức hấp dẫn của các bức ảnh do phu nhân chụp. Thực tế thì, phu nhân đã bị chỉ trích tơi bời trên mặt báo chỉ bởi các chủ đề của cô ấy không được rõ ràng rành mạch.”
“Cô ấy bị chỉ trích ư?”
Harrow bật cười. “Ngài nghe ra bực bội thật nhỉ. Thôi ngài cũng nên giữ gìn thời gian và sức lực cho chuyện khác đi. Nơi nào có nghệ thuật thì theo sau đấy luôn là đám phê bình. Bản chất nó đã thế rồi.” Anh ta liếc ngang qua căn phòng. “Kìa, cạnh bàn tiệc buffet là một ví dụ của giống loài ấy đấy.”
Gabriel nhìn theo hướng ấy. “À phải, ông Otford của tờ Người đưa tin bay. Chúng tôi đã gặp nhau rồi.”
“Đúng vậy, ông ta đã viết nên câu chuyện truyền cảm về cuộc trở về ngoạn mục của ngài trên tờ tin tức buổi sáng, phải không nào? Tôi tin chắc ngài sẽ đọc được bài phê bình cầu kỳ của ông ta về tác phẩm của phu nhân Jones trong ấn phẩm sáng mai đấy.”
“Tôi rất mong được đọc những nhận xét của ông ta đây.” Gabriel bảo.
“Xùy.” Sự khinh tởm của Harrow hiện rõ ra mặt. “Ngài đừng phí thời gian làm gì. Tôi bảo đảm rằng ngón tay út của ngài còn hiểu biết sâu sắc hơn toàn bộ khối não của tên này đấy. Nói thẳng ra, tôi dám bạo gan nói rằng ngài sở hữu cảm quan nghệ thuật còn phong phú hơn đa số những tay sưu tầm mà tôi biết.” Anh ta ngừng một lát. “ Đấy là chưa kể còn so với đại đa số các đức ông chồng nữa kia.”
“Cảm ơn, nhưng sao tôi vẫn có cảm giác chưa hiểu hết được ý anh.”
“Ý của tôi, thưa ngài, là đa phần các quý ông trong vị trí của ngài đây, vừa mới trở về nhà rồi phát hiện ra vợ mình đã tự thân gây dựng nên cơ sở kinh doanh, thì sẽ chẳng lấy gì làm vui lòng cho lắm đâu.”
Đúng vậy thật, Gabriel thầm nhủ. Venetia, dì Beatrice và Amelia đang rất mạo hiểm với hiệu ảnh của mình. Trong năm mươi năm qua thế giới đã thay đổi khá nhiều nhưng có những chuyện đổi thay chậm hơn những chuyện khác. Vẫn còn quá ít ngành nghề chuyên môn mở ra cho phụ nữ. Điều hành kinh doanh được cho là việc không phù hợp đối với một cô gái được nuôi lớn trong giới thượng lưu khả kính. Và rõ ràng không nghi ngờ gì rằng Venetia và gia đình của nàng xuất thân từ giới ấy.
“Vợ tôi là một nghệ sĩ,” chàng nói.
Harrow cứng người. “Nào, không cần phải đe dọa tôi đâu ngài ạ. Không có ý xúc phạm gì đâu, tôi xin đảm bảo. Tôi là một kẻ hết lòng ngưỡng mộ nghệ thuật của phu nhân ngài.”
Gabriel im lặng nhấm nháp sâm banh.
“Mong ngài tin rằng tôi hoàn toàn chân thành, thưa ngài.” Harrow lại thận trọng tiến đến gần hơn. “Thực ra thì, tôi bất ngờ với suy nghĩ hiện tại của ngài thôi. Không có mấy người chồng cấp tiến được như ngài đâu.”
“Tôi quả thật thích xem mình là một người đàn ông hiện đại mà,” Gabriel đáp.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook