Trong phòng chỉ còn Kalinger.
Pháp sư tinh linh không “cấm đi lại”, mà chắc biết thừa cấm cũng vô ích, càng cấm đoán chỉ càng khiến người ta thêm tò mò.
Dĩ nhiên đời nào Kalinger chịu ở yên, anh ngồi trong phòng một lúc, uống miếng nước, cởi áo choàng rồi đi về phía cửa với trạng thái gọn nhẹ thuận tiện hơn.
Anh cũng bôi thứ dầu trong chiếc hộp thiếc lấy từ trong túi lên phần da bên ngoài quần áo trước khi ra ngoài, đấy là loại thuốc gây nhiễu sóng máy móc, bôi lên vật sống và chỉ cần thiết với phần cơ thể lộ ra ngoài, hiệu quả là lũ máy móc sẽ không thể trông thấy vật sống nữa.
Vậy là tất cả lũ golem trong tháp không thể phát hiện ra Kalinger, việc của anh chỉ còn là cẩn thận tránh ngài tinh linh mà thôi.
Mà kể bị bắt gặp cũng không phải vấn đề to tát lắm, ngài pháp sư tinh linh chỉ mạnh miệng trên thư từ, còn giáp mặt thì đến can đảm mở lời cũng không có.
Kalinger lắc mình ra khỏi cửa, đi bộ lên cầu thang xoắn ốc, dù rất muốn ngồi lên đĩa đá di dộng nhưng rõ là nó không hề nghe lệnh anh.
Kalinger đi lên kiểm tra các tầng bên trên trước.
Các tầng này không có gì, hầu như đều là các kho để đồ linh tinh, Kalinger nhìn qua rồi bỏ đi.
Lần này anh đi thẳng xuống phía dưới, dừng lại ở các tầng 6, tầng 7 và tầng 8 trong chốc lát.
Tầng sáu có hai căn phòng tương đối lớn, bên trong có bàn làm việc với đống công cụ ngổn ngang, một ít linh kiện, mấy con golem chưa dùng và một con golem đang sửa nửa chừng.
Tầng bảy và tầng tám là phòng đọc sách, bằng chứng là giá sách được kê đầy trong phòng, có mấy cái đĩa di động loại nhỏ để lấy sách, ngoài ra còn có mấy chiếc bàn và ghế đệm.
Tầng này có cảm giác ấm cúng nhất chứ không lạnh tanh như những tầng ở phía trên.
Kalinger định tìm kiếm thông tin hữu ích ở hai tầng này nhưng tiếc là phải bỏ cuộc vì quá nhiều sách, có rất nhiều cuốn còn được viết bằng ngôn ngữ mà anh không hiểu.
Kalinger xuống đến tầng chín, tầng này giống phòng nghiên cứu với lô lốc các loại chai lọ.
Trên sàn có vệt máu đã khô, những chiếc bàn đá to choán gần hết diện tích và bên trên là một số sinh vật có ngoại hình giống sói với tứ chi bị xích lại, ngực bị phanh ra, hiển nhiên là đã chết.
Trong chiếc lồng ở góc phòng cũng nhốt hai con quái vật đã chết, lồng được làm bằng sắt, trên chấn song có khắc ký hiệu ma thuật.
Hai con quái vật khác nhau có cùng điểm chung là: Tứ chi vặn vẹo, mắt đỏ, một phần lông bị lột, phần khác thì có màu sắc kỳ lạ, răng và móng phát triển bất thường, lưng và các khớp xương vươn ra gai nhọn.
Đó là vật thể bị lây nhiễm từ Vực sâu dị giới, hoặc có thể gọi chúng là vật thể chuyển hóa, hay đơn giản là chúng đã hoàn toàn trở thành sinh vật của Vực sâu.
Xem ra đây là phỏng giải phẫu.
Thật vất vả cho ngài pháp sư khi phải bắt chúng về.
Không biết cuộc thí nghiệm có thành công không, có tiến triển gì quý giá không.
Kể cũng lạ… thông thường các pháp sư đều khóa chặt phòng thí nghiệm của mình, thế nhưng Kalinger chả phải bẻ lấy một cái khóa nào, phòng nào anh cũng nghênh ngang ra vào mà không có bất gì cản trở, bởi vì – chúng còn chả có cửa.
Ngoài căn phòng sinh hoạt ở tầng năm ra thì hầu như tất cả các phòng khác đều không có cửa, chỉ có cổng vòm trên các bức tường đá.
Từ tầng thứ mười, hành lang và các căn phòng lại bắt đầu sơ sài, không đèn, không nội thất, không có đồ đoàn phục vụ sinh hoạt hay nghiên cứu, không gian hoàn toàn để trống không sử dụng.
Đến tầng thứ mười ba là Kalinger buộc phải dừng lại.
Từ đây cầu thang bị gãy, theo vết tích thì nó phải sập từ rất nhiều rất nhiều năm về trước mà vẫn không được sang sửa.
Cả chặng đường thám hiểm, Kalinger bắt gặp rất nhiều golem nhưng tuyệt không có bóng dáng của pháp sư, chứng tỏ ngài pháp sư đang ở nơi sâu hơn nữa và rõ ràng là ngài ta xài đĩa di động hay các loại phép thuật nên không dùng đến cầu thang.
Kalinger ngó xuống nhìn từ chiếu nghỉ tầng mười ba, bên dưới tối thui, sâu không thấy đáy.
Độ sâu của tháp Trụy Nguyệt đã vượt quá độ cao của ngọn núi.
*
Pháp sư tinh linh đi men theo đường mòn xuống núi, con đường đất đá tua tủa cỏ dại như bao lối mòn thông thường, nhưng lại bất thường vì ngoài con đường ra không còn gì cả, không cây cối, không cảnh quan, không bầu trời, không ánh sáng, những phương hướng khác ngoài con đường cũng tối đen và trống rỗng.
Sương không cầm đèn, ở đây, cậu có thể đi mà không cần ánh sáng.
Sườn núi thoải dần rồi bằng phẳng, không còn đất đá và cỏ dại, bắt đầu từ đây chỉ còn nền đá xám xịt nhẵn thín phẳng lì.
Áo choàng khẽ đung đưa theo bước chân đi thỉnh thoảng để lộ đôi chân trần của pháp sư, ngài không đi giày, những nơi bàn chân trắng nhợt bước lên đều để lại một dấu vết sẫm màu, như nước đọng hoặc như vết máu chưa khô, hiện ra trong không gian một lúc rồi tan biến.
Cuối cùng, pháp sư đến trước bức tường kết tinh dựng đứng, vuông góc với mặt đất.
Bức tường tinh thể trắng xám, phần mép ngoài trong trẻo trái ngược với phần đục ngầu ăn sâu vào bên trong, trông giống như một hồ nước đục bị đóng băng.
Sương áp tay trên lên bề mặt tinh thể, bên trong khối tinh thể chợt tối tăm như có thứ gì đó cuồn cuộn muốn xông lại gần, nhưng dù nó giãy giụa thế nào cũng vẫn bị giam cầm không thể thoát ra.
Giữa không gian lặng như tờ, Sương lại nghe được tiếng thét gào đến chói tai từ bên trong, ngài pháp sư nhíu mày, còng người xuống để chống cự vài giây ù tai này.
Qua một lúc pháp sư mới ngẩng đầu nhìn lên phía trên của vách tường tinh thể.
Đầu kia của vách tường băng đâm thẳng vào bóng đêm, nối đến một vùng không gian khác.
Cũng ở hướng ấy xuất hiện một dòng chảy bàng bạc len lỏi vào tinh thể, nó chìm dần chìm dần cho đến khi dừng ở độ cao ngang mặt đất.
Sương không thể nhìn thấy cảnh tượng ở bên kia bức tường tinh thể đục ngầu cũng như hình dáng cụ thể của dòng ánh sáng bạc.
Nhưng lạ là ngài pháp sư không cần nhìn cũng biết bên kia giam giữ thứ gì.
Vật thể hắc ám bên trong tinh thể như được đánh thức, nó lao về phía vật thể ánh bạc.
Sương thở dài, áp cả hai tay và trán lên vách tường tinh thể, cả người cậu tựa vào bức tường băng khổng lồ và ngầu đục, mắt từ từ nhắm lại còn hai tay thì lần lần trên mặt tinh thể, đầu ngón tay vẽ ra mấy đường nét, mặt trong tinh thể rung động như đáp lời.
Sương mở choàng mắt, “Còn một con ở chân núi ư? Sao lại thế…”
Ngài pháp sư vội vàng đứng dậy, lùi mấy bước rồi quay ngược trở lại con đường mòn ban đầu.
Cậu cố gắng chạy nhanh hơn, bước chân liêu xiêu như có thể ngã sõng soài bất cứ lúc nào.
Khi lên đến đỉnh núi, con đường đất đá bỗng hóa thành nền đá thứ được tạo ra bởi bàn tay con người, bóng tối bao trùm không gian cũng lần lượt biến mất nhường chỗ cho vách tường và cầu thang.
Nhìn xuống từ đây chính là cầu thang xoắn ốc kéo dài tới vô tận, không còn bóng dáng của con đường mòn hay vách tường tinh thể.
Sương đứng trên bậc thềm cũ nát, một tay lần mò trên vách tường, tay còn lại vẽ ký hiệu giữa không trung triệu hồi đĩa di động đang chờ lệnh.
Đĩa đá di động nhanh chóng xuất hiện đưa ngài pháp sư bay lên.
Tới chừng tầng thứ mười lăm, mười sáu, đĩa di động dừng lại.
Sương nhìn vách tường với vẻ lúng túng.
“Ngài thợ săn, xin hỏi… ngài đang làm gì đấy vậy?”
Trên vách tường trước mắt Sương treo một người mà còn ai vào đây ngoài ngài thợ săn tiền thưởng Kalinger.
Khi gặp phải phần cầu thang bị sập ở tầng mười ba, Kalinger đã cài một thiết bị cố định vào phần cầu thang còn nguyên vẹn, tròng một đầu dây thừng vào thiết bị và đầu còn lại thì quấn vào eo, lắp thêm chiếc móc dùng để leo núi rồi bắt đầu leo xuống để kiểm tra độ sâu của tháp Trụy Nguyệt.
Kalinger nghiêng đầu sang một bên và trả lời với khuôn mặt đầy nét ưu phiền, “Tôi mất ngủ.”
Sương đáp, “Tôi có thuốc an thần.”
Kalinger đáp, “Không cần đâu, thợ săn tiền thưởng chúng tôi là thế đấy, mất ngủ với ác mộng như cơm bữa ấy mà, tôi quen rồi.
Trước khi ngủ cứ vận động một lúc mới ngon giấc được.”
Nói xong lời nói dối mà cả hai đều chẳng thèm tin, Kalinger vẫn đu đưa trên tường ngoái đầu nhìn Sương, nhìn ngài pháp sư mấp máy môi, hé ra rồi khép lại… mà theo khẩu hình thì rõ ràng đó là một câu chửi thề bị nuốt về bằng tất cả sức lực của lý trí.
Sương điều khiển đĩa đá di động đến gần vách tường, “Lên đây đi” – với vẻ mệt mỏi hiện rõ trên khuôn mặt, “Coi như tôi cầu xin ngài, đừng bày trò nữa.”
Kalinger nhảy lên đĩa di động, “Ok, tôi hiểu rồi, tôi thua.
Dám cá là dù tôi có xuống được tới đáy cũng không thấy được thứ bên dưới kia.”
Sương thở dài, “Ngài biết thế là được rồi.”
“Tôi cũng vừa đoán ra thôi.
Vì tôi nhận ra dù ngài rất khó chịu nhưng chẳng có vẻ gì là sốt ruột cả.
Ngài biết tôi không thể xuống được, mà xuống cũng không phát hiện ra bí mật gì.
Thứ dưới kia bị ma thuật gì đó bảo hộ phải không?”
Sương chỉ thở dài lắc đầu không đáp.
Đĩa di động từ từ bay lên, Kalinger nghiêng sang nhìn Sương, sắc mặt tinh linh phờ phạc, có vẻ không chỉ vì bực dọc mà còn do mệt mỏi quá sức.
Trông pháp sư tinh linh lúc này khá yếu ớt.
Vì thế Kalinger thôi bông đùa, anh nhận ra bản tính cứng đầu và không hề muốn hợp tác dù có dụ dỗ hay khích bác của Sương.
Cũng chả sao, thợ săn tiền thưởng luôn thiện hành động một mình, từ trước tới giờ vốn chẳng quan trọng việc có người khác hiệp trợ hay không.
Đĩa di động lên tới tầng năm, Kalinger ngoan ngoãn trở về phòng, tươi cười nhìn tinh linh bỏ đi.
*
Đêm ấy trôi qua trong bình yên.
Sớm tinh mơ hôm sau, Kalinger tỉnh dậy mà không thấy Sương, thay vào đó là hai con golem tròn bốn chân đợi chờ sẵn.
Lần này lũ golem không truyền âm cũng không gửi lời nhắn mà chỉ lẳng lặng đưa Kalinger ra khỏi tháp.
Đi từ bên trong tháp Trụy Nguyệt, cánh cửa chính là chiếc cổng mái vòm với hai cánh cửa bình thường, nhưng khi bước ra tới bên ngoài và ngoái lại thì chỉ còn vách đá trơ trọi mà dù Kalinger có sờ soạng hay kiểm tra các kiểu cũng không thấy bất cứ dấu vết của cửa nào.
“Không muốn tiễn tôi à, ngài giận tôi vậy sao ngài tinh linh?” – Kalinger thất vọng nhún vai.
Lúc xuống núi, Kalinger luôn để ý động tĩnh xung quanh sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào, mặc dù trời đã sáng bảnh mắt, nhưng cánh rừng vẫn che hết ánh sáng khiến nó trông thật âm u.
Song lần này Kalinger không bắt gặp con quái vật nào.
Đến sườn núi nơi đống biển cảnh báo treo đầy lối đi, còn tiếng quái vật thì tuyệt đối không.
Kalinger cố ý lảng vảng quanh rừng nên khi xuống tới chân núi thì thái dương đã lên tới đỉnh đầu.
Ra khỏi con đường mòn đến bên bờ ruộng, Kalinger phát hiện phía trước đang tụ tập một đám người, dẫn đầu chính là thi nhân thường trú và bà chủ quán, họ đúng tụm vào nhau và không ai dám nhích lại gần cánh rừng hơn số đông còn lại.
Vừa thấy Kalinger là bà chủ quán đã mừng rỡ kêu lên, tiếng kêu chả khác gì bật công tắc cho cả đám đông hoan hô ầm ĩ và đồng loạt chạy ùa về phía anh.
Kalinger sợ run lùi mấy bước liền nhưng vẫn bị đám người bu lấy.
Thi nhân kích động muốn nhào đến ôm nhưng Kalinger nhanh lẹ tránh được, vì thế thi nhân túm chặt tay anh, “Ôi chúa ơi, ngài còn sống trở về? Tôi cứ tưởng ngài chết trong rừng rồi cơ!!”
– Rốt cuộc anh muốn tôi sống hay chết đấy? – Kalinger trả cho thi nhân một nụ cười cứng nhắc.
Bà chủ quán quan sát Kalinger trước khi quan tâm hỏi: “Ngài có bị thương không? Thương ở đâu? Trong làng có thầy thuốc đấy! Mà chắc bà ấy chưa dậy, để tôi cho người đi gọi!”
– Tôi bị thương ở trong tim đây này.
Hôm qua pháp sư tinh linh bảo sẽ tiễn tôi xuống núi mà cậu ta không thực hiện.
Một ông lão không xuất hiện vào hôm qua cũng đến vỗ vào tay Kalinger mấy cái, “Ngài trở về là tốt rồi, không giết được ác ma cũng chớ nản, đó là ác ma mà, người bình thường như chúng ta không đối phó được đâu, không ai trách ngài…”
Kalinger nói, “Tôi gặp mấy con quái vật nhưng đều giết rồi.
Nay tôi về nghỉ ngơi trước, tối tôi lại đi xử lý tiếp.”
Đám đông chỉ im lặng được mấy giây trước khi reo hò sung sướng.
Ông lão vừa rồi còn đỏ mắt, rưng rưng nói làng Cây Đen sắp được cứu rồi.
Đúng lúc này có một cô bé cỡ bảy, tám tuổi đến giật áo choàng Kalinger.
Kalinger cúi đầu nhìn, là cô bé nhút nhát trốn sau cánh cửa căn nhà mà anh hỏi đường tối hôm qua.
Cô nhóc hỏi anh, “Ngài có gặp tinh linh không?”
Kalinger trung thực trả lời, “Có gặp đấy.” – anh không xoa đầu nó vì sợ tay mình không sạch sẽ lắm vì quờ quạng trong rừng suốt cả sáng nay.
“Một mình tinh linh ở trong rừng có sợ không ạ?” – câu hỏi ngây ngô làm Kalinger phải ngây ra một lúc.
Câu chuyện về tinh linh kéo mọi sự chú ý của dân làng, có người hỏi liệu tinh linh giận họ không, có người thì thắc mắc tinh linh có xuống núi hay không, hay có người tò mò ác ma có giam cầm tinh linh hay không, có người lại nhờ Kalinger chuyển vài món đồ cho tinh linh nếu anh còn quay trở lại khu rừng…
Kalinger hỏi họ muốn gửi gì, người nói muốn gửi thư, người thì muốn tặng một cuốn biên niên sử của làng Cây Đen, thi nhân thường trú muốn cảm ơn tinh linh bằng hoa trái và rượu vì đã cứu cậu của anh ta, cũng chính là người quản lý trị an.
Thật ra từ lúc xuống núi, Kalinger vẫn luôn băn khoăn một chuyện: Tại sao tinh linh Sương không rời khỏi ngọn núi này?
Thầy của Sương đã biến mất, xung quanh cũng không có đồng tộc, vậy tinh linh vẫn cố thủ ở đây làm gì?
Dù cánh rừng có tiềm tàng mối nguy hiểm nào thì đó cũng không phải trách nhiệm của Sương.
Ngài pháp sư tinh linh hoàn toàn có thể bỏ đi.
Kể mà có muốn nhận trách nhiệm thì cũng chỉ cần chiêu mộ vài tay mạo hiểm và thợ săn tiền thưởng đến xử lý, việc gì cậu ta phải cố thủ ở một tàn tích nơi không dành để sinh sống như vậy?
Thậm chí đã có lúc Kalinger nghĩ rằng có khi nào “ác ma” do chính pháp sư tạo ra không, biết đâu còn có một âm mưu nào đó.
Đó cũng là một khả năng chứ.
Thế nhưng khi nhìn đám dân làng ngốc nghếch và ngây thơ ở làng Cây Đen thì Kalinger lại lờ mờ đoán ra một khả năng khác.
Anh chỉ quan tâm đến những chuyện trong phạm vi công việc, cũng tự biết bản thân chả phải loại lương thiện mềm lòng gì, nhưng Kalinger phải thừa nhận, trên đời vẫn tồn tại loại người như thế..
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook