Cái Xiềng Của Tostearad
-
C16: Phần 1- Chương 9
Lữ đoàn cầu mưa Due rahma gồm những người tốt bụng nhiệt tình. Vào buổi tối, sau lễ tạ ơn cuối cùng của tháng 9, họ tổ chức một bữa tiệc thịnh soạn chia tay nhóm Laahad. Cô gái nhỏ biết ơn điều đó. Những người mới của đoàn đều nhớ vị khách đã giúp toán nhạc công. Người quen để Laahad ngồi vào trung tâm. Mười bốn người quây quanh chiếc bàn gỗ bày đầy thức ăn và bia. Không phải dè chừng ánh mắt soi mói của người Otman hay lũ lẻo mép buôn tin trong chợ. Phụ nữ và đàn ông cư xử thoải mái như thành viên cùng gia đình.
Aghniar xô Bararamal say xỉn, cướp viên thịt cừu cuối cùng từ món Kofta gắp cho Laahad. Ôm cô bé và cứ xuýt xoa mãi về những khó khăn sắp tới trong chuyến hành trình qua Lihal, cẩn thận như một người chị ruột. Đôi mắt cô ngấn nước, cứ bấu chặt vào Laahad và phả mùi bia nồng nặc. Sambiraa bế đứa con, nó khua lục lạc cười khoái chí kể cả mẹ nó xoa đầu một người chị khác. Trưởng đoàn ngồi đối diện Laahad và Amahr, ông trách cứ vũ công đã học cách chiến đấu để trở nên đáng tin cậy. Căn dặn bằng giọng nghiêm nghị và Amahr cúi thấp đầu kính trọng. Anh em nhà Itraudra đánh hơi thấy rắc rối đã lảng ra xa từ đầu. Dành sự chú tâm vào nhạc cụ, tạo ra âm thanh vui nhộn từ đàn Oud và trống Riq.
"Ồ, sao phải chia tay sớm thế! Tất cả là lỗi tại Hira! Anh ta đang rúc ở chỗ quái nào chứ?!"
"Có thể lại đang lừa người ta lấy một con lạc đà."
Laahad im lặng uống nước cam. Sambiraa trừng cô em gái và người chồng. Họ vội xin lỗi, nở nụ cười gượng gạo nồng mùi bia mạch mì. Ey almarg- chồng của người chị lớn của cặp song sinh và là người thổi sáo, chuyển chủ đề về tiếng trống Riq tế lễ của Laahad. Khẳng định anh rất ấn tượng. Cố gắng ném rắc rối vào dĩ vãng và giúp vợ bế con. Cô gái nhỏ nói đã học điều đó ở Gumaunten, từ người Digan. Laahad và anh cô đã từng sống giữa những người Otman trong hai năm. Những người của đoàn cầu mưa ngạc nhiên về cách anh em bản địa đã có một sạp hàng bán trầm phát đạt. Một lần nữa, đứa bé trong vòng tay bố nhoẻn miệng cười.
Một đêm sa mạc lạnh, trong ánh đèn Seljuk, giữa mùi bia mạch mì và khói từ tẩu Briar, và những món hải sản từ hồ Giaya trộn cùng cơm Couscous. Tiếng nhạc tấu vui vẻ. Mười hai người của đoàn Due rahma chia sẻ niềm vui họ có cho cô gái nhỏ chỉ vừa bắt đầu hành trình. Trao sự chân thành và nhận lại sự chân thành. Đoàn Due rahma gồm người bản địa, người lai và người Najzakhs. Ngồi quanh bàn tiệc với mối liên kết chặt chẽ. Khi mặt trời lên, sẽ có thêm bốn nô lệ băng qua hoang mạc Lihal. Nơi được gọi Vùng đất của những tên cướp. Họ không thể tạm biệt trực tiếp vào sáng sớm khi đoàn buôn nô lệ khởi hành. Nó sẽ khiến những kẻ sùng đạo Chishamga chú ý. Họ biết sẽ tốn một khoảng thời gian khá dài để gặp lại. Amahr, Jashar và Dadru đã chuẩn bị sẵn sàng. Trưởng đoàn làm dấu ban phước trên đầu họ. Ông nắm chặt vai những người trẻ tuổi bằng đôi bàn tay chắc chắn. Laahad cúi đầu để người già làm dấu phước lành trên trán.
"Cầu thần Sahral dõi theo chuyến hành trình của con gái người, Laahad."
Kẻ nhận phúc ân kết thúc bằng dấu tạ ơn. Đan những ngón tay về phía trong, áp dấu hiệu lên che miệng và mũi, với hai ngón cái tì lên hai má. Giống như một người lữ hành sẽ bỏ qua những điều gian trá của lũ quỷ, và đặt mỗi bước chân dưới sự dẫn dắt của vị thần sa mạc. Những người khác lùa cả bốn lên lầu để họ chuẩn bị lần cuối, trước khi trở lại quán trọ. Trên cầu thang, Amahr và Laahad im lặng. Cô gái nhỏ thấy ánh mắt ấm áp của vũ công trước khi đóng cửa phòng. Anh em Itraudra làm động tác trêu chọc buồn cười sau khoảng hở của cánh cửa phòng đối diện. Cô bé cười khoe hàm răng. Và Amahr đầu khiến hai anh em vội vàng đóng sập cửa phòng.
----
-Kofta: Kofta là một món ăn gia đình, làm từ thịt băm viên, được tìm thấy ở tiểu lục địa Ấn Độ, Nam Caucian, Trung Đông, Balkan và các món ăn Trung Á.
-Couscous: Couscous là một món ăn có nguồn gốc từ Bắc Phi. Couscous là dạng cơm khô, thường ăn kèm với các món hầm có thành phần chính là thịt cừu, thịt gà hoặc cá.
(Nguồn: http://topplus.vn/tin-tuc/am-thuc/15-bat-ngo-cua-am-thuc-a-rap-xe-ut)
-Euy almargt (từ cụm "euyun alqut" nghĩa là mắt mèo và từ Felis margarita là tên của loài mèo cát): Mắt của mèo cát.
-Đèn Seljuk: Một loại đèn cổ của thế kỉ 12, đế quốc Seljuk. Đèn có hình ấm trà, làm bằng đồng hoặc sắt. Người Arabiapan đốt đèn Seljuk bằng một loại dầu màu vàng có mùi hắc mua của các thương nhân Ả Rập.
-Đế quốc Seljuk (còn được đọc là Seljuq) là một đế quốc Turk-Ba Tư theo phái Sunni của đạo Islam, khởi nguồn từ nhánh Qynyq của người Thổ Oghuz. Đế quốc Seljuk kiểm soát một khu vực rộng lớn trải dài từ Hindu Kush đến miền đông Anatolia và từ Trung Á đến Vịnh Ba Tư. (Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%BF_qu%E1%BB%91c_Seljuk)
-Thần Sahral (Hư cấu): Thần sa mạc.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook