Cái Xiềng Của Tostearad
-
C11: Phần 1- Chương 4
Người sa mạc biết cách tìm dấu hiệu của mưa. Cây không mọc lên từ cát, chúng cần nước. Việc thiếu nước kéo dài khiến loài cây cỏ kiên cường nhất cũng phải khô héo. Người ở Athrayir mỗi ngày sẽ kiểm tra độ tươi của vỏ của cây Amshe, tìm mầm cỏ non hoặc xem độ ẩm của hạt giống. Chúng đã khởi sắc kể từ khi những đoàn cầu mưa đầu tiên tới nhưng vẫn chưa thực sự có một cơn mưa đã đổ xuống. Cái nóng vẫn gay gắt khiến người ta bối rối và lo lắng. Họ trông chờ vào đức tin, cầu nguyện sự che chở của đấng tối cao.
Due rahma là lữ đoàn kì lạ với chỉ một vũ công nam tế lễ buổi trưa và hai phụ nữ vào buổi tối. Phụ nữ và đàn ông có những điệu nhảy khác nhau. Họ đã bắt đầu từ cảng Othohus, men theo bờ phía đông của Arabiapan đến thánh địa và đem theo hi vọng chắc chắn. Due rahma đã từng không nổi tiếng. Hai năm trước, khi họ chỉ có mười người, đó cũng là một năm cơn mưa đến muộn hơn tất cả mọi năm. Những người dân giận dữ ném đá lên đài tế khi buổi lễ đang diễn ra. Nó được giải quyết vì trưởng đoàn, ngài Mubarit Jagait khẳng định hôm sau trời sẽ mưa, với một cái trán chảy máu và giọng trầm cương quyết. Vụ xung đột đã được lờ tịt khi lữ đoàn Due rahma trở lại Athrayir lần nữa vào năm sau và rồi năm sau. Người ta quăng những đồng vàng tế lễ cũng nhiều như những viên đá đã từng ném. Người cùng nghề nói rằng Due rahma là những kẻ bịp bợm tinh vi.
Một điều lén lút đã xảy ra trong buổi lễ. Nắng đầu chiều dịu bớt và những sạp hàng trở lại làm việc. Một người của đoàn Due rahma thôi không thu gom những đồng tiền rơi quanh bục gỗ. Anh để công việc lại cho người đánh trống và thổi sáo. Tiến đến chỗ những người bạn cùng đoàn đang thu dọn đồ, với khuôn mặt bình tĩnh. Vỗ vai một người cao lớn, cho anh ta xem thứ trong lòng bàn tay khum. Đó là một mẩu rễ cây Tul lên mốc được buộc vào một đồng bạc Girid. Nó là đồng ở gần chân và chắc chắn được tìm thấy sớm. Những nhạc công nhìn xung quanh kín đáo, thấy rằng bãi sân rộng có rất nhiều đoàn khác cũng đang thu gom. Người bản địa vạm vỡ giận dữ, nghiến qua kẽ răng:
"Một lời thách thức! Nếu dám xuất hiện, chúng sẽ phải lãnh một trận nhừ tử!"
"Bình tĩnh, bạn tôi, chúng sẽ quay lại."
"Chúng nên thế! Chết tiệt!"
Một người ghét những trò lén lút điển hình. Anh nghiền vụn mẩu rễ đậu Tul bằng hai ngón tay. Và thả đồng Girid vào túi của người thu gom. Họ trông lo lắng khi quay lại công việc.
Cách một khoảng, Amahr Awaalsasf- vũ công, hớp ngụm nước từ chiếc túi da dê, ngồi nghỉ một mình dưới gốc cây cọ palm. Đôi bàn tay vẫn còn nóng rát và đầu váng vì cái nắng. Anh đã bỏ những dải lụa rườm rà và những vòng chuông nhỏ. Lờ đi cái nhìn của những người Otman- những kẻ khắt khe về quy định trang phục. Đó chỉ là lũ chạy trốn mới đến mong muốn gây rắc rối. Nếu là kẻ ngoan đạo, dân mắt xám sẽ không chạy khỏi Gumaunten như một đám chuột hèn nhát. Amahr đã làm vũ công được 6 năm, từng đối mặt với nhiều sự soi mói hơn ở kinh đô. Sau khi cơn mưa đến tất cả sẽ trôi sạch như cách nước rửa trôi bụi bẩn lâu ngày trên cơ thể.
Nước trong túi da dê đã không trào ra cát, vì nắp đóng. Nó được bắt kịp bằng một bàn tay rắn chắc trước khi kịp tiếp đất. Chuôi dao tì vào lưng vũ công, cách lớp vải áo Quasir và cái lạnh kim loại gây rợn nước da tối màu.
"Đứng yên."
Giọng bản địa khàn đục gầm gừ. Bằng cách nào đó kẻ đe dọa có thể tiến đến sát vũ công, người đóng vai trò mồi nhử. Một kẻ đủ khéo léo để đã không đánh động đến những người bạn trong đoàn anh ta, đang xếp đồ và thu gom tiền, dù họ để ý. Khoảng lặng ngắn sau đó. Amahr dự định lấy đà cho một cú nhảy bật đột ngột giãn khoảng cách. Nhưng một bàn tay nhỏ cướp lấy túi nước anh đang cầm nhanh như cách loài rắn hổ mang mổ con mồi. Chính xác và nhanh nhẹn. Nó làm cú lấy đà của người bản địa bị hẫng, sượt một đường dài. Cát bị xới tung. Thành viên trong lữ đoàn giật mình thấy vũ công của họ khụy đầu gối xuống cát.
"AMAHR!"
"Em là Laahad Tostearad. Anh em và em đã từng gặp anh ở đây hai năm trước. Làm ơn đừng gây chú ý đến bọn buôn nô lệ."
Vũ công ngay lập tức ngồi bật dậy và xua tay, ngăn những nhạc công mà Bararamal dẫn đầu cầm con dao găm anh ta đã giấu. Họ nhìn thấy một người nhỏ bé bên cạnh vũ công. Một cô gái rám nắng đeo khăn Nijab và có mái tóc đen dày, đang cầm túi nước của Amahr. Họ thấy dấu hiệu dừng tấn công, đứng yên và nhìn với vẻ lo lắng và tò mò.
Amahr nhận ra đã nghe thấy điều gì và quay đầu. Nó khiến anh phải mở to mắt kinh ngạc. Bên trên khăn Nijab là một đôi mắt giữ sự dữ dội của Akhmakar. Bất cứ điều gì có thể quên, trừ một đôi mắt như thế. Anh thấy một cô gái nhỏ bé, một trong hai người hai năm trước đã chỉ ra rắc rối họ gặp phải chỉ là một vụ trộm cắp tiền tế lễ bị giật dây. Những kẻ lừa đảo đã kích thích đám đông. Là người chỉ cho ngài Mubarit cách xác định chính xác khi nào một cơn mưa sẽ tới bằng mẩu rễ Tul mọc mầm. Đó là một ân huệ. Anh có một bên gối quần Sirwal bị trầy xước, nhưng đó không phải là cách mở đầu để chào một ân nhân.
"Lạy thánh Al muejazat! Là em, thật là em Laahad! Em làm gì ở đây một mình?! Lần sau đừng xuất hiện bất ngờ như thế!"
"Em thấy Due rahma đang gặp rắc rối. Các anh dựng một cái bẫy, nên em đã giúp đỡ. Xin lỗi Amahr."
" Ừ... không. Dù sao, chỉ vài vấn đề nhỏ. Bọn anh sẽ cố giải quyết nó sớm."
Họ đã chỉ quen biết trong vài ngày và cô gái nhỏ chắc vũ công sẽ không nói sự thật. Anh là người không nói về phiền phức để cần một sự giúp đỡ. Cô ấy đã tự kiểm tra bằng một mẩu rễ đậu và một con dao. Cho thấy thành viên của lữ đoàn cảnh giác và liều lĩnh hơn bình thường. Khi cảnh giác, người ta chỉ nhìn về hướng họ nghi ngờ. Điều đó khiến các giác quan bị đánh lừa. Amahr là người quen duy nhất sẽ nhanh chóng nắm bắt được tình hình để đóng vai một người giám hộ. Hai gã Do Thái mặc áo lữ hành đen, cạnh sạp vũ khí đã quan sát Laahad từ lúc cô chạy khỏi chỗ những tấm thảm lông cừu đến khi lẩn vào đám đông những người xem lễ tan rã. Nhưng cô ấy đã có một người quen ở bên cạnh và không còn cần phải thận trọng như một người đơn độc. Amahr sẵn sàng chào đón cô gái nhỏ. Anh đứng dậy, đi về phía những người bạn đang lo lắng với cô gái nhỏ bám sát phía sau.
----
No1 @kagalen526 : Amahr Awaalsasf.
Chú thích:
-Cảng Đông Othohus (Hư cấu, từ cụm : "Othalia no tochi kara no shukufuku" nghĩa là Phước lành từ vùng đất Othalia): Một bến cảng lớn nằm ở bờ phía Đông Arabiapan. Sau khi cảng Tây Teinuwrubiya bị những người Najzakhs chiếm giữ, tổ chức như một nhóm cướp biển hùng hậu, những thương nhân từ Châu Âu muốn tiếp cận Arabiapan phải đi vòng theo bờ phía Bắc, đến phía Đông đại mạc và cập cảng Othohus. Nó trở thành một trong những bến cảng lớn nhất của người Otman ở thuộc địa. Othohus cũng là nơi một phần thương nhân có thể bắt thuyền đi ngược lên hướng Bắc và tiếp cận Athrayir từ bên phải, chấp nhận giá cho một chuyến đi an toàn và đắt cắt cổ. Othohus có tên Phước lành của Othalia vì cơn gió mùa thổi theo hướng Đông Bắc đi qua những vùng thuộc địa của Đế chế Othalia ở châu Âu và Á. Cơn gió mùa đẩy buồm của thuyền lớn, đem thuyền cập cảng, điều đó thuận lợi cho thương nghiệp.
-Cây Amshe (Hư cấu, từ cụm "alrajul aljashe" nghĩa là Kẻ tham lam): Một loại cây bụi mọc hoang có sức sống dẻo dai ngay cả bị nhổ bật rễ. Chỉ cần một thân cây Amshe có đủ nước để đâm chồi trở lại, nó sẽ đâm chồi. Nó cho một loại quả tròn nhỏ bằng đầu ngón tay út có vị cay, mùa vụ thu hoạch là cả năm. Nó có tên Kẻ tham lam vì sẽ hút nước trước tiên khi tìm thấy và hút nước nhiều hơn cả những loại cây khác. Nó làm đất khô cằn, vì thế người ta chỉ trồng với số lượng ít, bên cạnh cây ớt. Khi mùa mưa sắp đến, có thể tìm một cây Amshe bị nhổ bật rễ, tách phần vỏ thân. Nếu dễ tách, vỏ bên trong mềm và có màu xanh nghĩa là sẽ có mưa trong khoảng thời gian tới.
-Áo ngắn Quasir( Hư cấu, lấy từ cum "qamis qasir" nghĩa là áo ngắn): Một loại áo ngắn tay làm từ vải thô nhẹ và mỏng, thường mặc kèm một loại áo ngắn sát tay gần giống Gile.
-Đạo Chishamga quy định trang phục phải khiêm tốn và không phô trương. Nam giới không được dùng tơ lụa, trang sức vàng và nước hoa.
-Mubarit Jagait: Sự biện minh của loài báo đốm.
-Thánh Al muejazat (Hư cấu, lấy từ cụm min almuejazat nghĩa là "Của kì tích"): Vị thánh của những món quà và những điều kì tích.
-Bararamal (almubaraz alnaqiu): Kiếm sĩ của người bản địa.
-Amahr Awaalsasf (Lấy từ Nahr nghĩa là Sông, cụm niemat alsama nghĩa là Phước lành của bầu trời): Dòng sông tạo thành từ cơn mưa. Cơn mưa tạo thành từ thần Umtir. Đứa con của dòng sông được nhận sự ban phước từ bầu trời.
Bình luận
Bình luận
Bình luận Facebook